Wednesday 12 June 2013

KINH NIỆM PHẬT BALAMẬT (1)

Này đại chúng! Nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người nào tin nhận, ghi nhớ rõ ràng nghĩa thú của Kinh Niệm Phật Ba La Mật này, rồi nương theo đó xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Dẫu một niệm, hai niệm, cho tới mười niệm hoặc nhiều lần của mười niệm thì các ngươi phải biết người ấy chắc chắn được Phật thọ ký, hiển phát năng lực của tánh không, tỏ ngộ tri kiến Như Lai, và bước thẳng vào cảnh giới Thánh trí tự chứng.
Này đại chúng, nếu các ngươi thấy người nào thọ trì kinh này, và thường xuyên niệm Phật, thì phải khởi lòng tôn trọng y như kính ngưỡng chư Phật vậy. Chớ nên móng tâm ngăn trở người thọ trì kinh này, chẳng được phơi bày lỗi lầm, sai trái của người niệm Phật.

Kinh Niệm Phật Ba La Mật
Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

Mục Lục
1/ Phẩm Thứ Nhất Duyên Khởi
2/ Phẩm Thứ Hai Mười Tâm Thù Thắng
3/ Phẩm Thứ Ba Niệm Phật Công Đức
4/ Phẩm Thứ Tư Xưng Tán Danh Hiệu
5/ Phẩm Thứ Năm Quán Thế Âm Bồ tát Niệm Phật Viên Thông
6/ Phẩm Thứ Sáu Năng Lực Bất Tư Nghị Của Danh Hiệu Phật
7/ Phẩm Thứ Bảy Khuyến Phát Niệm Phật Và Đọc Tụng Chơn Ngôn

1/ Phẩm Thứ Nhất Duyên Khởi
Chính tôi được nghe như thế này. Một thuở nọ, đức Phật kiết hạ tại núi Kỳ Xà Quật, gần thành Vương Xá với chúng đại Tỳ kheo một muôn hai nghìn người. Đó là các vị Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Tu Bồ đề, La Hầu La, Phú Lâu Na, A Nan, A Nan Đà, Ma Ha Ba Xà Ba Đề, Gia Du Đà La, v.v…
Lại có tám muôn vị Đại Bồ tát khắp mười phương cùng đến tham dự. Đó là các Ngài: Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, Địa Tạng Bồ tát, Diệu Âm Bồ tát, Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Bồ tát, Đà la ni Tự Tại Công Đức Lâm Bồ tát, Trang Nghiêm Vương Bồ tát… tất cả đều có năng lực thâm nhập vô lượng Tam muội môn, tổng trì môn, Giải thoát môn, đã chứng Pháp thân, đắc ngũ nhãn, biện tài vô ngại, thần thông du hý, biến hiện đủ loại thân tướng khắp các quốc độ để cứu vớt chúng sanh.
Lại có vô lượng Đại Phạm Thiên Vương, Tự Tại Thiên Vương, Đế Thích Thiên Vương, Đâu Suất Thiên Vương, Đao Lợi Thiên Vương cùng vô số quyến thuộc dự hội.
Lại có Long Vương, Khẩn Na La Vương, Càn Thát Bà Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương… cùng vô số quyến thuộc câu hội.
Lại có Quốc mẫu Vi Đề Hy hoàng thái hậu và vua A Xà Thế cùng hoàng tộc, quần thần câu hội.
Lại có hơn năm trăm vị Trưởng giả cư sĩ của thành Vương Xá cùng vô số quyến thuộc câu hội.
Tất cả đại chúng đều cung kính cúi lạy dưới chân Phật, rồi lui ngồi một bên.
Lúc bấy giờ, trong hàng Ưu bà tắc có một vị Trưởng giả tên là Diệu Nguyệt, trú ngụ tại thành Vương Xá, từng quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm, cùng đến dự pháp hội. Vị Trưởng giả này từ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp quá khứ, từng gần gũi thừa sự cúng dường vô lượng vô biên muôn ức hằng hà sa đức Phật, y theo Chánh pháp tu hành. Hiện tại làm thân cư sĩ, vợ con đông nhiều, nhà cửa nguy nga, kho đụn đầy rẫy. Tuy ở giữa cảnh ràng buộc mà vẫn trưởng dưỡng tâm trí Giải thoát.
Tuy hưởng dụng ngũ dục thế gian, nhưng vẫn hoài bão đại nguyện độ sanh của chư Đại Bồ tát. Tuy ở trong chốn bùn lầy dơ bẩn mà vẫn sẵn sàng xả ly thân mạng tài sản, quyến thuộc để gieo trồng hạt giống Bồ đề. Tuy ở trong căn nhà lửa chập chùng hiểm nạn, mà vẫn thực hành Tuệ giác Vô lậu, hết lòng thương tưởng chúng sanh như con một, thể hiện Pháp thí oán, thân bình đẳng.
Trưởng giả Diệu Nguyệt từ trong đại chúng bước ra, đi nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi đến trước Như Lai, chấp tay quì xuống, gối bên hữu chấm sát đất, cung kính bạch với đức Phật rằng:
“Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thế Tôn! Được làm thân người là khó, như con rùa gặp bộng cây nổi, nhưng được gặp Phật ra đời còn khó gấp muôn phần.
Gặp Phật ra đời đã khó, nhưng được nghe Chánh pháp lại còn khó gấp muôn phần.
Được nghe Chánh pháp đã khó, nhưng làm thế nào để nương theo giáo nghĩa tu tập lại còn khó gấp vô lượng phần.
Bởi vì sao? Theo chỗ con xét nghĩ, thì trong tám muôn bốn ngàn pháp mầu mà Như Lai đã chỉ dạy, nhằm đưa hết thảy chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, phải có một pháp mầu cứu vớt những hạng chúng sanh tội khổ, mê đắm, xấu ác. Hôm nay con phụng vì hết thảy chúng sanh tội khổ nơi thời Mạt pháp, cũng như phụng vì các bậc Trưởng giả, cư sĩ, Bà la môn, Sát đế lợi, Thủ đà la tại thành Vương Xá này, mà khẩn cầu đức Thế Tôn rủ lòng thương xót, ban cho chúng con một cách thức tu hành thật dễ dàng để Giải thoát, một con đường thật vắn tắt để hoàn thành Phật Trí.
Như đức Thế Tôn từng chỉ dạy, đời Mạt pháp các chúng sanh trong cõi Diêm phù đề cang cường, ngỗ nghịch, tâm tạp, nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không biết hiếu thuận cha mẹ, không biết cung kính Sư trưởng, không thực lòng quy y Tam bảo, thiếu năng lực thọ trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ báng Thánh nhân v.v… Cho nên con suy gẫm như thế này, phải có một môn tu thật giản đơn, thật tiện lợi nhất, dễ dàng nhất để tất cả những chúng sanh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm dứt luân chuyển sanh tử khắp ba cõi, được thọ dụng pháp lạc, sớm bước lên địa vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vì sao như vậy? Sau khi Như Lai diệt độ khoảng một ngàn năm trở đi, đó là thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, các kinh điển dần dần ẩn mất, chúng sanh căn cơ hạ liệt, ám độn, ngã chấp sâu dày, tâm tưởng thô trệ, tà kiến lan tràn, say sưa làm các nghiệp ác để tự vui.
Do đó tự nhiên chiêu cảm động đất, đói kém, tật dịch, binh đao, bão lụt, mất mùa, gió bão, thời tiết viêm nhiệt bức não. Thánh nhân lại không xuất hiện. Tuổi thọ giảm dần. Nếu ai phát khởi tâm chí tu hành, cũng không thể tu tập các môn Giới luật, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát vô lậu. Không thể tu tập Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, Tứ chánh cần. Không thể tu tập Tứ vô lượng tâm, không thể tu tập Sáu Ba la mật, hoặc là Bố thí Ba la mật, nhẫn đến Trí huệ Ba la mật, không thể tu tập bằng các phương tiện của Quán Trí để ngộ nhập Phật Tri Kiến. Không thể chứng đắc Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. Không thể chứng nhập Sơ Thiền nhẫn đến Tứ Thiền. Không thể chứng nhập Niết bàn Diệu tâm. Không thể vào sâu vô lượng Tam muội, Thần thông du hí của chư Bồ tát, nhẫn đến không thể thâm nhập cảnh giới thù thắng trang nghiêm của chư Phật, hoặc rải cỏ nơi đạo tràng, đánh rền trống pháp hàng phục ma quân.
Vì lý do như vậy, mà đệ tử chúng con xét nghĩ nên phát khởi Vô thượng Bồ đề tâm. Khẩn cầu đức Thế Tôn chỉ dạy giáo pháp nhiệm mầu, mong lợi lạc hết thảy tội khổ chúng sanh ở thời kỳ cuối cùng của Chánh pháp”.
Trưởng giả Diệu Nguyệt vừa dứt lời thưa thỉnh, thì bỗng đại địa chấn động mãnh liệt. Khắp hư không, hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, tuôn rắc như mưa. Từ phương Tây, xuất hiện vô lượng vô số hằng hà sa đám mây ngũ sắc, mây chiên đàn hương, mây y phục cõi trời, mây âm nhạc cõi trời, mây hoa sen báu trắng bạch v.v… Trong những đám mây ấy phát ra tiếng sấm lớn, đồng một lúc chầm chậm bay về, nhóm lại phía trên đỉnh núi Kỳ Xà Quật. Tất cả đại chúng đều vui mừng, hớn hở, tự biết ấy là điềm lành chưa từng có.
Bấy giờ, Quốc mẫu Vi Đề Hy hoàng thái hậu từ trong đại chúng, bước ra trước Phật đảnh lễ xong, bèn chấp tay thưa:
“Bạch đức Thế Tôn, vì duyên cớ gì mà hiện điềm lành này?”
Liền khi ấy, đức Như Lai từ nơi tướng lông trắng chặng giữa chân mày, phóng ra hào quang chiếu khắp vô lượng vô biên vi trần số thế giới mười phương mà nói lời này:
“Lành thay! Lành thay! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân! Nay ta vì lời thưa thỉnh của Ưu bà tắc Diệu Nguyệt, và của Ưu bà di Vi Đề Hy, lại nương theo bổn nguyện của vô lượng vô số bất khả thuyết chư Phật, mà tuyên dương giáo nghĩa bí mật vi diệu tối thắng đệ nhất, nhằm cứu độ hết thảy chúng sanh ở trong thời kỳ Phật Pháp cuối cùng.
Giáo nghĩa này, chư Phật quá khứ đã nói, chư Phật hiện tại đang nói, và chư Phật vị lai sẽ nói. Tất cả chúng sanh đời Mạt pháp sẽ nương nơi giáo nghĩa này mà được Giải thoát rốt ráo, mãi mãi xa lìa các đường ác, hiện đời an ổn, sau khi mạng chung được sanh về cõi Phật, chứng ngôi vị Bất thối, dần dần tu tập cho đến khi đắc A nậu đa la Tam miệu tam Bồ đề.
Này cư sĩ Diệu Nguyệt, hãy chăm chú lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói:
“Diệu Nguyệt, tất cả các loại chúng sanh chết ở nơi đây, rồi sanh sang nơi kia, sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi sắp mạng chung thì các loại nghiệp lành dữ trong một đời hiển hiện rõ ràng. Chúng sanh nào sống thuần bằng tư tưởng, thì bay lên hóa sanh nơi các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh độ.
Chúng sanh nào tình ít, tưởng nhiều thì vào hàng phi tiên, bay đi nhẹ nhàng nhưng không được xa bằng hạng thuần tưởng.
Chúng sanh nào tình và tưởng bằng nhau thì sẽ phát sanh vào cõi người. Bởi vì sao như vậy? Bởi tưởng là thông sáng, tình là mê tối. Nếu tình và tưởng ngang bằng nhau thì không bay lên và cũng không đi xuống.
Chúng sanh nào tình nhiều, tưởng ít thì sẽ lạc vào bàng sanh, nhẹ thì làm chim bay, nặng thì làm thú chạy.
Chúng sanh nào có bảy phần tình và ba phần tưởng, sẽ bị đọa làm thân Ngạ quỷ, thường chịu nóng bức, đói khát trải qua trăm ngàn kiếp dài lâu.
Chúng sanh nào có chín phần tình và một phần tưởng, thì sẽ đọa vào Địa ngục. Nhẹ thì vào nơi Địa ngục hữu gián, nặng thì sẽ đọa vào ngục Đại A tỳ. Nếu ngoài cái tâm thuần tình ấy, còn kiêm thêm các trọng tội như hủy giới cấm của Phật, khinh báng Đại thừa, thuyết pháp sai lầm, đắm tham của tín thí, lạm thọ sự cung kính, và phạm vào Thập ác ngũ ngịch, thì sẽ chiêu cảm quả báo luân chuyển sanh về các ngục Vô gián ở khắp mười phương.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ! Trong thời kỳ Chánh pháp diệt tận, chúng sanh nơi cõi Diêm phù đề tình nhiều tưởng ít, tâm địa bỏn sẻn, tham lam ghét ganh, các căn lành phước báo kém cỏi. Lúc sanh tiền thọ nhận đủ loại nghiệp dữ, sau khi mạng chung sẽ chịu các quả báo đau khổ trong ba nẻo ác dữ với hạn kỳ lâu dài. Vì thế mà chư Phật khắp mười phương xót thương vô cùng, luôn luôn tìm cách cứu trừ khổ não cho các hạng chúng sanh kia.
Các đức Như Lai hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên dương diệu pháp bí áo sâu xa cho những bậc Thánh giả, Hiền nhân mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về tưởng.
Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát na tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát na tâm sanh diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.
Diệu Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được Y báo, và Chánh báo của Phật A Di Đà ở cõi Cực lạc. Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ đẳng Tam muội của đức A Di Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh độ Tây phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất thối chuyển. Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua Thập địa, chứng Vô thượng giác.
Diệu Nguyệt nên biết, đây thật là pháp vi diệu thù thắng đệ nhất, mà chư Phật dùng để cứu độ khắp hết thảy chúng sanh. Đây thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn tại thế, thành Phật trong một đời.
Đây là môn tu Đại oai lực, Đại phước đức mà chư Phật giúp chúng sanh vượt thắng thân phàm phu, mà thâm nhập cảnh giới Chơn thường.
Đây là môn tu Đại Bát nhã, Đại Thiền định, mà chư Phật dùng làm thuyền bè đưa hết thảy chúng sanh qua thấu bờ bên kia, không còn sanh già bịnh chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp lạc.
Đây là môn tu Đại trang nghiêm, Đại thanh tịnh, mà chư Phật dùng để đưa hết thảy chúng sanh vào giới luật, nhiếp chúng sanh vào oai nghi, an ổn phúc lạc.
Đây là một môn tu Đại nhu hòa, Đại nhẫn nhục, mà chư Phật giúp hết thảy chúng sanh tự tại giữa khổ và vô thường mà thành tựu Tri Kiến Phật.
Đây là môn tu Đại Bồ đề, Đại siêu việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để giúp hết thảy chúng sanh thành Phật, như Phật ngay trong một kiếp.
Đây là môn tu Đại Từ bi, Đại dũng mãnh, mà chư Phật dùng để giúp chúng sanh có được cái Tâm bằng Tâm chư Phật, có được cái Nguyện bằng Nguyện chư Phật, mau chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng Pháp thân từng phần.
Lại nữa trong quá khứ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, nhẫn lại đến nay, chư Phật cũng chỉ dùng một pháp Niệm Phật này để độ khắp chúng sanh. Trong hiện tại cũng có vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật ở mười phương cũng đang thuyết giảng giáo nghĩa Niệm Phật này để rộng cứu vớt chúng sanh.
Trong đời vị lai, tất cả chư Phật nếu muốn cứu vớt hết mọi chúng sanh, thì cũng phải do nơi pháp Niệm Phật này. Do đó mà Như Lai bảo rằng Niệm Phật là vua của tất cả các Pháp.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, hãy một lòng tin nhận lời dạy của Như Lai. Hãy ghi nhớ kỹ lời dạy của Như Lai. Hãy thực hành theo lời dạy của Như Lai, và hãy chứng đắc Pháp Nhẫn tối tôn, tối diệu, đệ nhất này mà như lai đã ban cho.
Vì sao vậy? Vì pháp của Như Lai là chân thật, là Giải thoát, là an vui, là thuận theo sở cầu, sở nguyện của mọi chúng sanh. Vì pháp của Như Lai là vắng lặng, không dính mắc, vô cấu nhiễm, thuận theo tình và tưởng của chúng sanh mà vẫn giúp chúng sanh thành tựu địa vị Phật Đà, không bị hư hoại, cho nên chẳng cần phải chán ghét lìa bỏ thế gian, ở trong chỗ ràng buộc mà tâm vẫn tự tại, thọ dụng pháp lạc. Và sau khi lâm chung được sanh về cõi Phật A Di Đà”.

2/ Phẩm Thứ Hai Mười Tâm Thù Thắng
Bấy giờ, đức Như Lai hiện ở trong đôi môi đẹp như trái tần bà phóng ra luồng hào quang rực rỡ, chói sáng gọi là Thành Tựu Thọ Quang Thể Tướng Quang Minh, với trăm ngàn ức A tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc. Chiếu soi mười phương tất cả thế giới tận hư không vô biên tế, vô chướng ngại. Hiển hiện Như Lai các thứ tự tại, khai ngộ vô lượng những chúng Bồ tát, chấn động hằng hà sa quốc độ, diệt trừ mọi thống khổ của chúng sanh, phá tan các đường dữ, bủa che tất cả cung điện của ma vương, phơi bày tất cả Như Lai giáng sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, thuyết pháp Đại thừa giáo hóa chúng sanh nhẫn đến thị hiện Niết bàn.
Trưởng giả Diệu Nguyệt thấy đức Thế Tôn hiển hiện thần biến quảng đại, khiến tất cả chúng hội, chư Đại Bồ tát, chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, chư Cận sự nam, Cận sự nữ cùng hết thảy Trời, Rồng, Quỷ, Thần v.v… đều sanh lòng hoan hỷ chẳng thể nghĩ bàn. Diệu Nguyệt bèn cởi xâu chuỗi ngọc báu nơi cổ mình mà cúng dường nơi chân Phật, đảnh lễ đức Phật, và nói kệ khen ngợi như vầy:
“Lành thay đức Thế Tôn
Con được làm thân người
Lại được nghe mật pháp
Của chư Phật ba đời
Thế Tôn là tối thắng
Sư tử trong dòng Thích
Thật là Đại Y vương
Đủ phương thuốc nhiệm mầu
Dứt hẳn khổ sanh tử
Giúp hết thảy chúng sanh
Xa lìa ba đường ác
Chứng cái vui Niết bàn
Nơi cõi Phật thanh tịnh
Nay con chuyên một lòng
Luôn xưng niệm danh hiệu
Đức Phật A Di Đà
Nguyện cùng các chúng sanh
Vãng sanh nước Cực lạc”.
Trưởng giả Diệu Nguyệt lại quán sát tâm niệm của đại chúng, những vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ và Trời, Rồng, Quỷ, Thần. Biết tâm niệm của đại chúng vẫn còn nghi ngờ, chưa hiểu thấu lời dạy của Như Lai, nên Trưởng giả đi đến trước Phật, chấp tay cung kính thưa:
“Bạch đức Thế Tôn, nay con do nơi năng lực vĩ đại của Bổn Nguyện đức Phật A Di Đà mà được tham dự pháp hội này, được đích thân nhận lãnh lời giáo huấn của Như Lai. Cho nên, con sẵn sàng đặt trọn tín tâm nơi Như Lai, nơi giáo pháp vi diệu hi hữu này. Nhưng, các chúng sanh vào thời kỳ Chánh pháp diệt tận, thì các căn lành cạn mỏng, phước đức thiếu kém, tri kiến bị si mê che lấp, kinh điển tuy còn sót ít nhiều nhưng chẳng có ai hiểu đúng lời Phật dạy. Do đó làm sao tin nhận giáo nghĩa uyên áo, bí mật này để thẳng bước tiến tu, mau thành Phật Trí.
Hôm nay, con thay vì hiện tiền đại chúng cũng như tất cả thiện nam, tín nữ trong thời vị lai, mà khẩn cầu đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được rõ.
Bạch đức Thế Tôn, con thường tin và nghĩ rằng Niệm Phật tức là thành Phật ngay trong đời này. Thế thì tại sao hôm nay đức Thế Tôn lại ân cần khuyên bảo chúng con phải phát nguyện vãng sanh Cực lạc quốc độ ở Tây phương?”
Khi ấy, đức Thích Ca mỉm cười, giơ cao cánh tay hữu, lấy bàn tay xoa trên đỉnh đầu của Trưởng giả Diệu Nguyệt, mà nói lời này:
“Hay thay! Hay thay! Diệu Nguyệt cư sĩ, đây là pháp khó tin, khó hiểu bậc nhất mà Như Lai chưa từng nói. Đây là pháp tối thượng Nhứt thừa, chứa đựng vô lượng vô biên ý nghĩa vi diệu mà Như Lai đợi đến đúng lúc, đúng thời mới ban cho, tựa như hoa Ưu đàm bát la mấy muôn ngàn năm mới nở một lần. Đây là Tạng Pháp bí mật của chư Phật ba đời, ví như viên bảo châu trên búi tóc Luân vương không thể khinh xuất giao cho người khác. Mà Như Lai chỉ truyền giao cho bất cứ chúng sanh nào quyết chí hoàn thành địa vị Thiên Nhân Sư, tiếp nối hạt giống Bồ đề.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nay ta dùng cặp mắt toàn giác để quan sát Tâm hiện tiền của chúng sanh, thì thấy rõ bản chất của cái Tâm ấy gọi là Tâm thể, Tâm thể ấy vốn không có hình dáng, tướng mạo, không có sắc chất, không dài, không ngắn, không quá khứ, không hiện tại, không vị lai, không dữ, không lành, không sanh, không diệt, cũng chẳng phi sanh diệt. Tâm thể ấy luôn luôn xa rời tất cả luận giải của thế gian. Do vì Tâm thể nhơ bẩn mà chúng sanh mãi luân chuyển trong ba cõi, sáu đường, đời đời chịu khổ. Do vì Tâm thể ấy trở nên thanh tịnh, mà chúng sanh được thành tựu giới, định, huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, đắc quả A la hán… nhẫn đến địa vị Phật Đà.
Bởi duyên với các pháp ác, mà Tâm thể ấy tạo ra cảnh giới Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Trời, Người, A tu la nhẫn đến chìm trôi triền miên bất tận nơi những cõi khổ khắp mười phương. Bởi duyên với các pháp lành mà Tâm thể ấy tạo ra cảnh giới Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền v.v…
Lại nữa, do vọng niệm tương tục nối nhau không dứt, mà biến hiện đủ loại hình tướng, sắc thân, thọ mạng, ẩm thực, quyến thuộc, phiền não để hưởng dụng trong các cảnh giới kia. Hoặc cam chịu những quả báo khổ lạc do những nhân tố sai biệt. Đời đời như thế mãi, chưa lúc nào tạm ngừng nghỉ.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nên biết rằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật chính là Pháp thân Viên mãn Chu biến Nhất thiết xứ, là Phật tánh thậm thâm có đầy đủ mọi năng lực vô úy bất khả tư nghị, có đầy đủ diệu dụng vô ngại bất tư nghị. Là cứu cánh siêu việt tối thượng, có đầy đủ năng lực bất khả thuyết, bất khả xưng tán, để chuyển hóa vô minh thành ra giác ngộ, sinh tử thành Niết bàn. Là phương tiện vi diệu bậc nhất, thường cải biến hết thảy Sở y và Sở hành của mọi chúng sanh, đưa tất cả tướng trạng hữu lậu, trói buộc, trở về với bản tánh Vô lậu, Giải thoát.
Cho nên, nếu chúng sanh nào đem Tâm thể của mình mà duyên với danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, thì Tâm thể của người ấy dần dần trở nên vô cấu nhiễm, dần dần phát sanh vô lượng vô biên đức tướng Như Lai. Do vậy, tự nhiên thấy mình ở trong thế giới Cực lạc trang nghiêm, thù thắng. Cùng một lúc, cái niệm tưởng Nam mô A Di Đà Phật sẽ phát khởi thân lượng, oai nghi, tướng hảo và quang minh của đức A Di Đà cùng chư vị Thánh chúng.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, người ở nơi ý nghĩa ấy phải nên hiểu rõ như thế!
Pháp môn Niệm Phật chính là là chuyển biến cái Tâm thể của chúng sanh, bằng cách không để cho Tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, với huyễn cảnh, với trí lực, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt v.v… Mà chỉ đem Tâm thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Không bao lâu, người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc cảm ứng với nguyện lực của đức A Di Đà, thấy mình sanh vào cõi nước Cực lạc, thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đảnh…
Lại nữa Diệu Nguyệt, nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập sơ phần Pháp thân, âm thầm ứng hợp với BI TRÍ TRANG NGHIÊM của Phật – nhưng chưa thể đắc Tam minh, Lục thông, vô lượng Đà la ni, vô lượng Tam muội, nhẫn đến chưa thể đắc Nhất thiết Chủng trí, chẳng thể đồng đẳng với chư Phật được mà chỉ thành tựu bước đầu tiên trên lộ trình Như Thật Đạo.
Thí dụ như làm gạch để xây nhà vậy. Tuy đã nhào trộn đất sét, bỏ vô khuôn và đã đúc ra hình dạng của viên gạch. Nhưng muốn viên gạch được bền lâu, chắc chắn, không hư rã, chịu được nắng chói mưa sa, thì cần phải đưa vào lò lửa nung đốt một hạn kỳ. Người niệm Phật cũng lại như thế. Tuy công phu niệm Phật trong hiện kiếp đã đặt nền tảng vững vàng cho sự nghiệp Giải thoát, nhưng sau đó phải vãng sanh Tịnh độ, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật và Thánh chúng cho tới khi thành tựu Vô sanh Pháp nhẫn. Sau đó, mới đủ năng lực hiện thân khắp mười phương hành Bồ tát đạo, ra vào sanh tử mà không trói buộc, trở lại chốn ác trược mà chẳng nhiễm ô, cứu độ chúng sanh không có hạn lượng.
Thí dụ như việc khắc họa hình tượng. Tuy đã dùng gỗ tốt đẽo gọt lâu ngày và tạo nên hình dáng con người. Nhưng phải bỏ ra một thời gian lâu xa để chạm trổ thêm mắt, tai, miệng, nét mặt, nếp nhăn, dáng vẻ, bộ tịch, thần sắc… Người niệm Phật cũng lại như thế. Tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh, và công phu không gián đoạn, bê trễ, nhưng nếu tái sanh cõi Ta bà thì vẫn bị luân chuyển vì Định Tuệ còn non kém, quả đức chưa hoàn mãn. Cần phải vãng sanh Cực lạc thế giới, cận kề Phật và Thánh chúng, thành tựu vô lượng Ba la mật thâm nhập Tam muội Tổng trì môn, phát hoằng thệ nguyện đi khắp mười phương giáo hóa vô số chúng sanh. Không lâu, lấy cỏ rãi nơi Bồ đề đạo tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng chánh giác, Chuyển pháp luân Vô thượng.
Diệu Nguyệt cư sĩ, nên biết rằng được vãng sanh Cực lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất thối chuyển. Từ đó về sau, dần dần thành tựu mười thứ Trí lực, mười tám pháp Bất cộng, năm nhãn, sáu thông, vô lượng Đà la ni, vô số Tam muội, thần thông du hí, biện tài vô ngại… đầy đủ bao nhiêu công đức vô lậu của Đại Bồ tát, cho đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: “vãng sanh đồng ý nghĩa với thành Phật, vì vãng sanh tức là thành Phật.”
Muốn vãng sanh Cực lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp Thân cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay nơi danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực… không thể nghĩ bàn”.
Diệu Nguyệt Trưởng giả lại thưa rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, tuy con đã thấu triệt nghĩa lý thâm diệu của pháp niệm Phật, nhưng vẫn khẩn cầu đức Thế Tôn thương xót mà rộng chỉ bày thêm, để hết thảy chúng sanh nơi đời vị lai được mọi điều lợi ích.
Bạch đức Thế Tôn, phải niệm Phật như thế nào mới gọi là đắc pháp? Phải dấy khởi những tâm thái nào mà tu tập mới được vãng sanh Cực lạc?”
Đức Phật dạy rằng:
“Này Diệu Nguyệt cư sĩ, thế nào là niệm Phật Chân Chánh? Muốn niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc chắn vãng sanh, thì người niệm Phật phải phát khởi Mười Thứ Tâm Thù Thắng sau đây:
1. Tín Tâm
2. Thâm Trọng Tâm
3. Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm
4. Xả Ly Tâm
5. An Ổn Tâm
6. Đà La Ni Tâm
7. Hộ Giới Tâm
8. Ba La Mật Tâm
9. Bình Đẳng Tâm
10. Phổ Hiền Tâm

1. Thế Nào Gọi Tín Tâm?
“Này Diệu Nguyệt, Tín Tâm nghĩa là lòng tin chân thật, tha thiết, bền vững. Là nhân tố quyết định thành Phật, là nhân tố quyết định thâm nhập cảnh giới Đại thừa. Bởi vì sao? Vì lòng tin là mẹ đẻ của tất cả công đức vô lậu, lòng tin là cửa ngõ nhiệm mầu đưa chúng sanh về nơi kho báu Phật Pháp. Cho nên, việc trưởng dưỡng Tín căn vẫn là điều thiết yếu nhất trong hết thảy mọi môn tu.
Trước hết là phải đặt trọn lòng tin chân thật vào Lý Nhân Quả một cách sâu chắc, kiên cố, và không hề nảy sanh một ý tưởng hoặc một hành vi trái ngược với Lý Nhân Quả. Phải thấy hoạt dụng của Lý Nhân Quả dung thông ba đời, đó là quá khứ, hiện tại, vị lai, rõ ràng như những đường chỉ, dọc ngang trên lòng bàn tay.
Tin rằng kiếp sống thế gian là Vô thường, mạng người ngắn ngủi như hơi thở ra vào, tất cả các pháp hữu vi đều là huyễn hóa, không có chủ tể, niệm niệm sanh diệt không ngừng, từng sát na biến hoại chẳng nghỉ, tất cả đều đưa tới khổ não, vô minh và trói buộc.
Tin rằng sáu nẻo luân hồi thật là nguy hiểm chướng nạn, sơ sẩy chỉ trong ý niệm cũng đủ đưa chúng sanh trầm luân cả nghìn muôn ức kiếp. Một lần sa lạc vào ba đường dữ thì không biết đến lúc nào mới thoát khỏi.
Tin rằng Phật Pháp chính là đạo Giải thoát an vui, đạo của Trí tuệ, đạo của Từ bi, đạo diệt khổ, đạo cứu vớt chúng sanh chẳng chừa một hạng loại nào cả, đạo của Phật Tri Kiến, có đủ phương thuốc nhiệm mầu trừ diệt tất cả các thứ bịnh tật của chúng sanh. Tin rằng Tam bảo là chỗ về nương của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sanh qua thấu bờ bên kia.
Tin rằng tất cả các pháp đều do Tâm thể của mình tạo ra. Từ ba đời mười phương chư Phật nhẫn đến tứ thánh, lục phàm, đều do cái Tâm thể lưu xuất và biến hiện. Tin rằng cõi Cực lạc cũng chỉ do Tâm thể thanh tịnh của chúng sanh tạo ra, cùng tương ứng với bổn nguyện vĩ đại của Phật, Bồ tát, Thánh chúng. Và tin rằng đức A Di Đà chỉ là do sự niệm tưởng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật phát khởi lên.
Tin rằng mỗi mỗi chúng sanh đều có đủ năng lực lãnh thọ giáo pháp Như Lai, bất cứ hữu tình nào cũng có năng lực hoàn thành địa vị Nhứt thiết Chủng trí như chư Phật.
Tin rằng bản nguyện của Phật A Di Đà là chân thật, rốt ráo, là tối thắng. Và Ngài không hề bỏ sót một chúng sanh nào cả, dù kẻ ấy phạm vào Ngũ nghịch, Thập ác v.v…
Tin rằng pháp niệm Phật vãng sanh là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người, vì rời môn tu này thì mọi người, mọi loài không thể Giải thoát, nếu phế bỏ môn tu này thì chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào khác để tế độ hết thảy hữu tình đúng như bản thệ, đúng như bản nguyện.
Diệu Nguyệt phải phát khởi tín tâm như vậy mà niệm Phật.
2. Thế nào Gọi Là Thâm Trọng Tâm?
Này Diệu Nguyệt, Thâm Trọng Tâm nghĩa là đem tấm lòng sâu xa và cẩn trọng mà cảm mộ ân đức của Tam bảo, tưởng nhớ công lao của cha mẹ, thiện tri thức và của hết thảy chúng sanh.
Trong quá khứ vô lượng vô biên na do tha vi trần kiếp, chư Phật vì thương xót chúng sanh mà xả bỏ đầu, mắt, tay, chân, thân mạng, tài sản, quyến thuộc… để tìm cầu Chánh pháp, tu Bồ tát đạo, giáo hóa muôn loài, làm cho ai nấy đều được lợi ích. Đời đời kiếp kiếp, chư Phật hằng theo dõi và thương tưởng đến mỗi một chúng sanh, luôn luôn tìm cách nhổ bật gốc rễ tham ái, đập tan gômg cùm sanh tử, làm khô cạn biển khổ vô minh, mãi phát tâm quảng đại, tâm kim cang, tâm vô phân biệt mà rọi sáng lối về cho mọi hữu tình. Vì thế mà người niệm Phật phải phát khởi cái tâm chí sâu xa và cẩn trọng để tưởng niệm, cảm mộ ân đức ấy.
Nhưng chư Phật muốn tế độ tất cả chúng sanh, thì cũng phải lấy Chánh pháp làm phương thuốc hữu hiệu trị dứt chứng bịnh tham ái, dùng Chánh pháp làm thuyền bè đưa chúng sanh qua đến bờ giác ngộ, dùng Chánh pháp làm tuệ kiếm chặt đứt mọi trăn trói phiền não, làm ngọn đuốc dẫn dắt ra khỏi đêm dài vô minh, làm chất đề hồ chữa lành mọi thứ sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, não, dùng Chánh pháp làm đôi mắt cho chúng sanh nhìn rõ Thật tướng.
Người niệm Phật phải biết cảm mộ ân đức cao dày của Chánh pháp, phải luôn luôn báo đáp ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh điển Đại thừa và giảng nói cho kẻ khác, khuyên bảo mọi người quy y, bố thí, trì giới, Thiền định. Khiến sao cho Chánh pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian, ai nấy đều được hưởng dụng cam lồ vị.
Dù đã phát nguyện quy y Tam bảo, nhưng người trực tiếp khai sanh tánh mạng tuệ giác ở nơi ta, chính là thiện tri thưcù, gồm có Thánh tăng, phàm tăng, Sư trưởng và các bạn đồng tu, đồng học.
Thiện tri thức là cửa ngõ xu hướng Nhứt thiết trí, vì làm cho chúng sanh đi vào Như Thật Đạo.
Thiện tri thức là cỗ xe xu hướng Nhứt thiết trí, vì đưa tất cả chúng sanh tới Như Lai địa.
Thiện tri thức là thuyền bè xu hướng Nhứt thiết trí, vì vận chuyển tất cả chúng sanh đến bờ giác.
Thiện tri thức là ngọn đèn xu hướng Nhứt thiết trí, vì khiến chúng sanh có được ánh sáng Phật Tri Kiến.
Thiện tri thức là con đường xu hướng Nhứt thiết trí, vì dẫn dắt chúng sanh vào cửa thành Niết bàn.
Thiện tri thức là cây đuốc xu hướng Nhứt thiết trí, vì làm cho chúng sanh thấy rõ con đường yên lành hay hiểm trở.
Thiện tri thức là chiếc cầu xu hướng Nhứt thiết trí, vì tiễn đưa chúng sanh qua khỏi chỗ hiểm ác.
Thiện tri thức là lọng che xu hướng Nhứt thiết trí, vì làm cho chúng sanh che núp dưới bóng râm đại từ mát mẻ.
Thiện tri thức là cặp mắt xu hướng Nhứt thiết trí, vì khiến chúng sanh nhận rõ Pháp tánh.
Thiện tri thức là thủy triều xu hướng Nhứt thiết trí, vì làm cho chúng sanh đầy đủ nước Đại bi.
Kế đó, là ân đức của cha mẹ, chín tháng cưu mang, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, quần áo chăn màn, nuôi con khôn lớn, suốt đời tận tụy, đến chết chưa nguôi.
Và cuối cùng là ân đức của chúng sanh, cung ứng ẩm thực, y dược, tọa cụ, văn tự, tri kiến, bảo hộ…
Do vậy, người niệm Phật phải lấy tâm chí sâu xa, cẩn trọng mà cảm mộ ân đức thiện tri thức, cha mẹ, chúng sanh v.v… Nhờ vậy mà Từ bi dần dần nẩy nở, ngọn lửa Trí tuệ từ từ bừng cháy, môn tu niệm Phật mới dễ dàng thành tựu.

3. Thế Nào Gọi Là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm?
Này Diệu Nguyệt, Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm nghĩa là dấy động cái tâm chí như thế này: Không riêng vì bản thân mà cấu xuất ly Ta bà loạn trược, khổ não. Trái lại, phải nguyện vì hết thảy chúng sanh khắp ba cõi sáu đường mà cầu vãng sanh Cực lạc, chóng thành tựu Phật đạo để tế độ quần mê. Tại sao vậy? Vì muốn có cái quả đức siêu việt tối thượng thì phải phát khởi cái tâm chí quảng đại, dũng mãnh. Người Niệm Phật nếu đem cái tâm thái hời hợt, hẹp hòi, yếu hèn, chỉ riêng vì Giải thoát bản thân, thì chẳng bao lâu sẽ chiêu cảm cái quả báo nhỏ bé, nông cạn, tầm thường, không xứng hợp với Bản hoài chư Phật, chẳng tương ứng cùng Bản nguyện vĩ đại Bi Trí Viên Mãn của Phật A Di Đà. Cho nên khó được tiếp dẫn về nơi cõi nước Tây phương.
Lại nữa, người niệm Phật còn phải đem tất cả công đức thực hành Sáu Ba la mật, Bốn Nhiếp pháp, Bốn Vô lượng tâm hoặc Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo… mà hồi hướng khắp anh em, cha mẹ, bằng hữu, chư thiên, chư tiên, bốn loại chúng sanh kẻ oán người thân đều được an trụ trong hồng danh Nam mô A Di Đà Phật.
4. Thế Nào Gọi Là Xả Ly Tâm?
Này Diệu Nguyệt, người Niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, phải phát khởi cái Tâm thái lìa bỏ tất cả. Sao gọi là lìa bỏ? Lìa bỏ nghĩa là không trụ tướng mà niệm Phật, không nắm giữ mà niệm Phật, không tương ưng mà niệm Phật, không đối đãi mà niệm Phật, không chống trái mà niệm Phật, không cầu mong mà niệm Phật, không nhiễm duyên mà niệm Phật như thế gọi là lìa bỏ.
Người niệm Phật chỉ buộc tâm và ý vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe, mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Quên cả thân, quên cả cảnh, quên cả cái ý thức tự biết Ta đang niệm Phật. Như thế mới gọi là lìa bỏ.
Lìa bỏ khổ, tập, diệt, đạo mà niệm Phật.
Lìa bỏ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà niệm Phật.
Lìa bỏ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ mà niệm Phật.
Lìa bỏ tín giải, hành chứng mà niệm Phật.
Lìa bỏ Từ bi, hỷ xả mà niệm Phật.
Lìa bỏ không, vô thường, vô ngã mà niệm Phật.
Lìa bỏ Bồ đề, Niết bàn, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, mà niệm Phật.
Lìa bỏ tất cả các pháp hữu vi, tất cả các pháp vô vi mà niệm Phật.
Lìa bỏ ngã và ngã sở.
Lìa bỏ luôn cả ý tưởng cầu mong vãng sanh, chí nguyện độ sanh, ý hướng thành Phật mà niệm Phật.
Niệm Phật với tâm Xả Ly như thế, mới được gọi là chân chánh niệm Phật
5. Thế Nào Gọi Là An Ổn Tâm.
Này Diệu Nguyệt, người Niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật phải phát khởi tâm chí bất động, kiên cố, không thoát chuyển. Do đó gọi là An Ổn Tâm.
Mình an trụ nơi Bồ đề tâm, cũng phải giúp người khác an trụ Bồ đề tâm, nên tâm được an ổn. Mình rốt ráo, xa rời giận hờn tranh cãi, cũng phải khiến người khác nhẫn nhục nhu hòa nên tâm được an ổn. Mình buông bỏ pháp phàm phu điên đảo, cũng phải đưa người khác tới địa vị Thánh giả siêu việt nên tâm được an ổn. Mình siêng tu thiện căn vô lậu thú hướng Niết bàn, cũng phải khiến người khác hủy diệt hết mạng lưới hữu lậu trói buộc, nên tâm được an ổn.
Mình đang sanh ra tại nhà Phật, cũng phải dẫn dắt người khác vượt thoát hố hầm dục lạc trở về bảo sở, nên tâm được an ổn. Mình thâm nhập pháp chân thật không tự tính, cũng nên giúp người khác chê chán huyễn tướng lầm mê, nên tâm được an ổn. Mình cảm ứng Trí Tạng vô tận của chư Như Lai, cũng khiến người khác thâm nhập Pháp Giới Bình Đẳng, nên tâm được an ổn.
Niệm Phật với tâm thái an ổn như vậy, mới gọi là chân chính niệm Phật.
6. Thế Nào Gọi Là Đà La Ni Tâm?
Này Diệu Nguyệt, người Niệm Phật phải phát khởi tâm chí nắm giữ tất cả các thiện pháp, đồng thời che lấp tất cả các ác pháp. Đó gọi là Đà la ni Tâm. Như là:
Tín Tâm Đà la ni, vì đặt trọn lòng tin thuần phác, trong suốt, nơi Bản nguyện của đức Phật A Di Đà cùng sự hộ niệm của chư Phật ở mười phương.
Chánh kiến Đà la ni, vì đúng như thật quán sát khéo léo tất cả các pháp đang diễn biến trong tâm và ngoài thân.
Tư duy Đà la ni, vì thường xuyên thấu triệt thể tánh của tất cả các pháp sinh khởi trong từng sát na hoại diệt.
Cảm ứng Đà la ni, vì luôn luôn thâm nhập tất cả bản nguyện chư Phật.
Hỷ lạc Đà la ni, vì an trụ nơi lực tiếp dẫn chư Phật và Thánh chúng.
Tam thế Đà la ni, vì tự an nhiên giữa cảnh tượng của nhân quả tương tục trong ba đời, cũng như thông suốt nghĩa lý Phật pháp của Tam thế chư Phật.
Tam muội Đà la ni, vì an trụ trong danh hiệu bất tư nghị nên nghe thấy điều phi pháp mà tâm chẳng loạn, sống nơi cảnh loạn trược mà không trôi lăn.
Niệm Phật với Đà la ni như vậy, mới được gọi là chân chánh niệm Phật.
7. Thế Nào Gọi Là Hộ Giới Tâm?
Này Diệu Nguyệt, người Niệm Phật phải luôn luôn an trụ nơi giới luật, và hằng phát tâm hộ trì giới luật. Ấy là:
Giới chẳng bỏ Bồ đề tâm, chẳng quên Bồ đề nguyện.
Giới tự nhiên xa lìa các phép học của Thanh văn, Duyên giác không tham đắm Niết bàn vắng lặng mà bỏ rơi chúng sanh.
Giới hân ngưỡng Đại thừa, vui thích tu hành theo tất cả pháp học Bồ tát đạo.
Giới đem hết thảy thiện căn hồi hướng quả vị Chánh đẳng giác, mong cầu Phật trí, Vô sư trí.
Giới nơi tất cả Phật pháp vô sở đắc.
Giới chẳng dính mắc tất cả thiện sự hữu vi.
Giới khiến cho diệu pháp được tồn tại lâu dài, làm cho hết thảy chúng sanh an trụ nơi Chánh kiến.
Giới khéo léo tư duy tất cả hành nghiệp chúng sanh và khiến chúng sanh trưởng dưỡng ý hướng Giải thoát.
Giới trang nghiêm tự tâm đồng thời trang nghiêm mười phương quốc độ của chư Phật.
Giới chư căn Luật nghi, như Tỳ kheo giới, Bồ tát giới, Ngũ giới tại gia v.v…
Niệm Phật với tâm hộ trì các giới luật kể trên, mới được gọi là chân chánh niệm Phật.
8. Thế Nào Gọi Là Ba La Mật Tâm?
Này Diệu Nguyệt, người niệm Phật phải phát động tâm chí tu trì những thứ Ba la mật sau đây:
Thí Ba la mật, vì xả bỏ tất cả sở hữu trong thân cũng như ngoài thân, không lẫn tiếc.
Giới Ba la mật, vì thanh tịnh các cõi Phật.
Nhẫn Ba la mật, vì an trụ nơi lực dụng của Bản nguyện.
Tinh tấn Ba la mật, vì tất cả chướng duyên chẳng có thể làm thối chuyển tín tâm.
Thiền định Ba la mật, vì chuyên nhất nhớ tưởng một cõi Phật, một danh hiệu Phật.
Bát nhã Ba la mật, vì đúng như thật mà quán sát tất cả tướng trạng và thể tánh của các pháp không rời nhau.
Tín Ba la mật, vì thường xuyên an trụ nơi Phật lực bất tư nghị.
Nguyện Ba la mật, vì đầy đủ những hạnh nguyện của Phổ Hiền.
Lực Ba la mật, vì hân hoan thể hiện tất cả năng lực tự tại của danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật.
Pháp Ba la mật, vì sẵn sàng xả thân cho Chánh pháp, cho Bồ tát đạo.
Niệm Phật với những thứ Ba la mật ấy, mới được gọi là chân chánh niệm Phật.
9. Thế Nào Gọi Là Bình Đẳng Tâm?
Này Diệu Nguyệt, người niệm Phật phải luôn luôn thực hiện tâm thái bình đẳng, không phân biệt, không ngăn ngại. Nghĩa là:
Tự tha bình đẳng, vì luôn mở rộng tuệ nhãn để nhận hiểu mình và người đều bình đẳng trước lực nhiếp thọ của chư Phật, chư Bồ tát.
Chủng loại bình đẳng, vì thường quán sát mười phương thế giới các loại chúng sanh từ sắc thân, hình trạng, tướng mạo, tộc tánh, thọ lượng, tri kiến, ý hành, sở y… mà không khởi tâm phân biệt, đối đãi, ái thủ hoặc yếm hoạn.
Chúng sanh giới bình đẳng, vì liên tục mở bày pháp giới trí trụ vô động tế, mà tự tại giữa những huyễn hóa biến dị của các loại hữu tình nơi ba cõi thế gian.
Pháp giới bình đẳng, vì thường xuyên an trụ nơi vô tướng khép vào pháp tướng, không móng khởi tâm sợ sệt trước thời gian vô cùng, không gian vô tận. Tự tại giữa một sát na như vô lượng vô biên đại kiếp. An nhiên giữa các cực vi đầu sợi lông, cũng như du hí mười phương sát trần hằng hà sa các quốc độ.
Không tánh bình đẳng, vì luôn luôn ức niệm mình được sản sanh từ nhà Như Lai, được Tự Tánh Thanh Tịnh Tạng, thấy rõ nhất thiết pháp Không, đắc Hư Không Hạnh vô ngại, giải ngộ và cảm ứng Tánh Không bình đẳng nơi hết thảy tứ sanh cửu hữu.
Phật độ bình đẳng, vì hằng quán tưởng các cõi Thường Tịch Quang, Thật Báo Trang Nghiêm, hoặc Phương Tiện Hữu Dư v.v… đều không ngăn ngại nhau, không riêng khác, tuy an lập Hoa Tạng Thế Giới Hải mà chẳng rời tự tâm, Thật Tế Trụ Địa vô phương sở, vô trụ xứ… tùy theo tâm lượng và sở nguyện của chúng sanh mà hiển hiện. Như hoa đốm, như tiếng vang, như bọt sóng, như bóng nước, như cầu vồng, như huyễn nhân kể chuyện mộng.
Tín tâm bình đẳng, vì tín tâm vốn khởi nguyên từ Bát nhã đức, từ Trí tạng quảng đại, từ Phổ nhãn thanh tịnh thông suốt cả ba đời, nên được thu nhiếp trong Bản nguyện vô lượng đức, vô biên lực dụng của chư Phật.
Niệm Phật với những tâm bình đẳng nêu trên, mới được gọi là chân chánh niệm Phật.
10. Thế Nào Gọi Là Phổ Hiền Tâm?
Phổ nghĩa là không bỏ rơi chúng sanh, Hiền nghĩa là chẳng xa cách quả vị Chánh Đẳng Giác. Phổ Hiền Tâm là tâm rộng lớn như hư không, luôn mong cầu độ thoát hết thảy chúng sanh.
Tâm vô biên như pháp tánh luôn hân ngưỡng, thừa sự và cúng dường chư Phật.
Tâm vô lượng, thọ trì tất cả Phật pháp chẳng quên mất.
Tâm vô hạn vì được Phật lực hộ trì nên chẳng bỏ Bồ đề hạnh.
Tâm thí xả hết thảy, vì sẵn sàng buông lìa tất cả sở hữu, dẫu là pháp vô sở đắc. Tâm nghĩ nhớ đạo Nhứt thiết trí trước hết, vì ham thích mong cầu tất cả Phật pháp.
Tâm vô tận công đức trang nghiêm vì học hỏi tất cả hạnh nguyện Bồ tát.
Tâm kiên cố như kim cang vì tất cả bạch tịnh pháp đều chảy vào.
Tâm như Tu di sơn vì tất cả ác ngôn đều nhẫn thọ.
Tâm Bát nhã Ba la mật cứu cánh, vì khéo quán sát tất cả pháp vô sở hữu.
Tâm đại hùng, đại lực để niệm Phật bất thối chuyển.
Tâm đại uy nghi vô tận công đức trang nghiêm, vì tùy thuận bản nguyện lực.
Tâm vô cấu nhiễm thường thanh tịnh Phật quốc độ để thành tựu Vô thượng Bồ đề.
Tâm tinh tấn như tượng vương khéo điều phục dã thú, để sớm viên mãn hạnh nguyện Phổ Hiền.
Người niệm Phật siêng năng trưởng dưỡng Phổ Hiền tâm như vậy, mới được gọi là niệm Phật chân chánh, thường được chư Phật hộ niệm, hiện đời luôn thấy Phật cùng y báo trang nghiêm của cõi Cực lạc.

3/ Phẩm Thứ Ba Niệm Phật Công Đức
Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Bồ tát liền nhập Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam muội, tất cả Bồ tát và đại chúng đều thấy thân mình ở trong thân của Phổ Hiền Bồ tát. Lại thấy rõ cõi nước Cực lạc vô lượng vô biên sự trang nghiêm, và tự nhiên thấy mình đang trụ trong cảnh giới vi diệu thù thắng ấy. Thấy đức A Di Đà đang ngự trước mặt mình. Thân tướng của đức A Di Đà cao lớn khôn cùng, hình dáng ngời sáng chói sắc vàng diêm phù đàn. Lông trắng chặng giữa chân mày thì uyển chuyển xoáy tròn về bên hữu, như năm ngọn núi Tu Di. Đôi mắt trắng và xanh biếc như bốn biển lớn. Các lỗ chân lông nơi thân đều phóng hào quang sáng sạch, chiếu soi muôn nghìn cõi nước ở khắp mười phương. Mỗi mỗi hào quang thường che chở, và nhiếp thọ những chúng sanh niệm Phật.
Lại thấy toàn cõi Cực lạc hiện trong thân mình, mặt đất bằng lưu ly trong suốt, rạng rỡ. Bảo thọ, bảo đài, liên trì, bảo lâu, bảo tòa… mỗi mỗi nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, trân châu, mã não. Chư thượng thiện nhân đều do hoa sen hóa sanh, ai nấy đầy đủ ba mươi hai tướng hảo, thọ dụng y thực tự nhiên thuần pháp hỷ thực và Thiền duyệt thực. Tất cả đều ngồi trên tòa báu lắng nghe đức Phật cùng Bồ tát thuyết pháp. Những sự việc trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy, dẫu đến ức kiếp kể cũng không cùng tận.
Hiện thần lực như thế rồi, Ngài Phổ Hiền bèn ra khỏi Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam muội, làm cho đại chúng trở lại như cũ.
Bấy giờ đại chúng được thấy sự chưa từng có, cho là rất đặc biệt lạ lùng, ngồi yên lặng nhất tâm chiêm ngưỡng. Lúc ấy, Quốc mẫu Vi Đề Hy hoàng thái hậu chấp tay bạch rằng:
“Thưa Đại sĩ, nay Tam muội này thật vô cùng hi hữu, có uy lực lớn, có công năng bất tư nghị, vậy tên gọi của Tam muội ấy là gì?”
Phổ Hiền Bồ tát nói:
“Tam muội này gọi là Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh còn gọi là Niệm Phật Tam muội. Do công đức xưng niệm danh hiệu Phật tạo thành, hoặc là kết quả tự nhiên của mười tâm thù thắng.
Này Phật tử, nay tôi nương thần lực và lòng đại bi vô hạn lượng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà tuyên thuyết Công Đức Bất Khả Xưng Tán của sự chấp trì danh hiệu Phật.
Mười thứ tâm thù thắng ấy, thật ra vừa là nhân vừa là quả. Nhân cùng quả thì không bao giờ rời nhau. Người tu môn niệm Phật thì phải đề khởi mười thứ tâm thù thắng, mới nhanh chóng thâm nhập Niệm Phật Tam muội, hiện bày cảnh giới Cực lạc. Hoặc ngược lại, người đặt trọn tín tâm nơi Bản nguyện và cả đời chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Phật, thì dần dần đi vào Niệm Phật Tam muội, tự nhiên thành tựu mười thứ tâm thù thắng nói trên.
Tại sao vậy?
Này Phật tử hãy chăm chú lắng nghe, tôi sẽ giải thích tường tận.
Danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật vốn đầy đủ vô lượng vô biên hằng hà sa công đức, vô lượng vô biên hằng hà sa ý nghĩa, vô lượng vô biên hằng hà sa lực dụng, cứu cánh, cảnh giới, giác tánh… dẫu trăm ngàn muôn ức na do tha vi trần đại kiếp, cũng không thể diễn nói hết được. Nay vì chúng sanh nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, mà tôi sẽ lược nói, để chúng sanh thu hoạch nhiều lợi ích.
Này Phật tử! Nam mô A Di Đà Phật nghĩa là gì?
Nam mô là thủy giác. A Di Đà là tương tục giác, Phật là bản giác.
Nam mô là năng niệm, A Di Đà là tương tục niệm, Phật là sở niệm.
Nam mô là giới luật, A Di Đà là Thiền định, Phật là Trí tuệ.
Nam mô là thế gian giới, A Di Đà là pháp giới, Phật là vô sai biệt giới, vô sở hữu cảnh giới, vô trụ xứ cảnh giới.
Nam mô là thường, A Di Đà là tịch, Phật là quang.
Nam mô là diệu quan sát trí, A Di Đà là bình đẳng tánh trí, Phật là đại viên cảnh trí, vô tận sở hữu trí.
Nam mô là phi hữu, A Di Đà là phi vô, Phật là Không tánh, phi hữu phi vô định tánh.
Nam mô là như thực hữu, A Di Đà là như thực không, Phật là như thực bất không.
Nam mô là sai biệt trí, A Di Đà là vô sai biệt trí, và Phật là pháp hải tuệ công đức vô tận tạng viên mãn trí.
Nam mô là phương tiện lực, A Di Đà là cứu cánh lực, và Phật là dung thông phương tiện siêu việt cứu cánh lực.
Nam mô là ly trần, A Di Đà là ly căn, Phật là ly thức.
Nam mô là chuyển y tạng, A Di Đà là vô tận thiện căn tạng, Phật là quyết định chính giác tạng.
Nam mô là ly cấu tạng, A Di Đà là Niết bàn tạng, Phật là như huyễn Giải thoát tạng.
Nam mô là trang nghiêm Phật quốc độ, A Di Đà là thành tựu vô biên Phật quốc độ, Phật là như huyễn thập phương Hoa Tạng Thế Giới Hải.
Nam mô là gia trì lực, A Di Đà là tiếp dẫn lực, Phật là tự tánh tương ưng nhiếp thọ lực.
Nam mô là khai thị vô lượng trí, A Di Đà là thâm nhập chính giác trí, Phật là quang minh phổ chiếu trí.
Nam mô là thế gian giải, A Di Đà là giác ngộ giải, Phật là nhất thiết trí biến chiếu thập phương viên mãn giải.
Này Phật tử, danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật có vô lượng vô biên bất khả thuyết ý nghĩa thâm mật vi diệu như thế, dẫu ba đời mười phương chư Phật diễn nói cũng không cùng tận.
Lại nữa, không thể chấp trước nơi ngữ ngôn, văn tự, âm thanh, tri kiến, biện luận… mà bảo rằng danh hiệu Nam mô A Di Đà là hữu niệm hoặc vô niệm. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy chính là Không tánh, là vô sở đắc, là vô sở ý, vô cấu nhiễm, là vô sở tương ưng, là vô sở bội nghịch, vô công dụng hạnh, là vô sở cầu hạnh.
Lại nữa, không thể chấp trước nơi hình thái tu tập, chỗ dụng công, hoặc phương tiện biểu hiện, qui tắc hành trì, mà cho rằng danh hiệu ấy là hữu định tánh hay vô định tánh. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật chính là vô tận tạng, hư không tạng, Đà la ni tạng, giải thâm mật cụ túc tạng…
Lại nữa, không thể chấp trước vào ý nguyện vãng sanh, tâm thái mong cầu Phật lực, hoặc an trú bản nguyện lực, hay sự phát tâm Bồ đề quảng đại… mà cho rằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật là hữu thú hướng hoặc vô thú hướng. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy, chính là tịch tịnh tạng, thanh tịnh vi diệu tạng, minh triệt tạng, là trần tạng, là thức tạng, là cấu tạng…
Lại nữa, không thể chấp trước vào cách thức trì niệm, vào nghi tắc lễ bái cúng dường, vào sự khẩn thiết xưng tán, sám hối hoặc tâm chí tùy hỷ công đức của hành giả niệm Phật mà cho rằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật là hữu sở y hay vô sở y. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy chính là khả ái nhạo tạng, là ly chủng chủng trần cấu tạng, là ly uẩn tạng, là vô chướng ngại tạng, là vô tận công đức tạng… vô tận thiện căn tạng, là Niết bàn tạng, là như huyễn Tam muội vô vi tạng, là thành tựu Phật độ tạng, là quyết định Vô thượng Bồ đề tạng, là Phổ Hiền bất tư nghị Giải thoát tạng…”
Khi Ngài Phổ Hiền Bồ tát ở trước đức Như Lai mà tuyên thuyết ý nghĩa và công đức bất khả tư nghị của danh hiệu Phật rồi, đức Như Lai khen rằng: Lành thay! Lành thay!
Vô lượng vô biên Bồ tát khắp mười phương chứng đắc Niệm Phật Tam muội, và Quốc mẫu Vi Đề Hy cùng những vị Trưởng lão trong đại chúng đều thân chứng Tín giải Đà la ni. Chư Thiên, Long, Quỷ, Thần đều thâm nhập Thiện căn Đà la ni, hớn hở vui mừng đồng chấp tay nhất tâm xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật.

No comments:

Post a Comment