Wednesday 12 June 2013

KINH NIỆM PHẬT BALAMẬT (P2)

4/ Phẩm Thứ Tư Xưng Tán Danh Hiệu
Bấy giờ, Quốc mẫu Vi Đề Hy hoàng thái hậu từ trong pháp hội bước ra, cung kính đảnh lễ Thế Tôn, rồi chấp tay hướng về Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát, mà thưa rằng:
“Kính bạch Đại sĩ, con thường nghe chư vị Trưởng lão từng tham dự những buổi thuyết pháp đầu tiên của đức Thế Tôn tại vườn Lộc Uyển, dạy rằng hoặc niệm Phật, hoặc niệm Pháp, hoặc niệm Tăng để được hiện tại lạc trú. Ý nghĩa ấy như thế nào? Cứu cánh của môn niệm Phật có phải chăng là để được như vậy hay không? Ngưỡng mong Đại sĩ Từ bi chỉ dạy, ngõ hầu các chúng sanh thời Mạt pháp khỏi rơi vào mê lầm, thác ngộ”.
Phổ Hiền Bồ tát bèn quán sát tâm niệm của hết thảy đại chúng hiện tiền, mà dạy rằng:
“Này Phật tử, khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni thị hiện thành đạo, và bắt đầu hóa độ chúng sanh cang cường, Ngài đã vì hạng tiểu căn mà khai diễn tiểu pháp kẻo họ kinh nghi… Nay đã tới thời kỳ giảng nói Đại pháp. Cũng chỉ là một pháp Niệm Phật, nhưng kẻ hạ liệt chí nhỏ, mong cầu xuất ly tam giới, thì niệm Phật chỉ là pháp Thanh văn, Duyên giác. Như Lai vì họ mà dạy hiện tại lạc trú.
Riêng chư vị Bồ tát sơ phát tâm, dùng niệm Phật để thâm nhập Như Lai tạng tâm thì không dính mắc vào hiện tại.
Vì sao chư Bồ tát sơ phát tâm lại không được dính mắc vào hiện tại?
Nếu Bồ tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại khắc chế, hiện tại tương ưng, hoặc hiện tại biện giải, thì bị rơi vào ảo tưởng của thọ uẩn.
Nếu Bồ tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại tỉnh chỉ, hoặc hiện tại luân chuyển, hoặc hiện tại nương gá, tức thì đang bị chi phối bởi ảo tưởng của tưởng uẩn.
Nếu Bồ tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại sanh khởi, hiện tại tương tục, hoặc hiện tại đoạn diệt, hoặc hiện tại bất động, tức thì đang bị trôi lặn theo ảo tưởng của hành uẩn.
Nếu Bồ tát sơ phát tâm dính mắc vào hiện tại phỉ lạc, hoặc hiện tại vong ưu, hoặc hiện tại mông muội, tức thì đang bị triển chuyển bởi ảo tưởng của thức uẩn.
Lại nữa, Bồ tát sơ phát tâm muốn xoay cái vọng tưởng hư dối sanh diệt trở lại với chân tâm thanh tịnh thường trụ thì phải dùng pháp gì, nếu không là danh hiệu Như Lai? Làm thế nào để chặt đứt gốc rễ phiền não, nếu không sử dụng lực vô úy của danh hiệu Như Lai? Làm thế nào để diệt trừ sạch hết sáu tên giặc khách trần nếu không hiển thị công năng nhiệm mầu đệ nhất của danh hiệu Như Lai?
Này Phật tử, cõi Diêm phù đề này vốn lấy âm thanh làm thể. Dó đó, nhiều chúng sanh có thể nương nơi âm thanh viên mãn mà chứng viên thông. Như vậy, danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật chính là âm thanh tối thắng, đưa chúng sanh thâm nhập Như Lai tạng diệu chân như tánh. Vì thật tướng của danh hiệu là vô tướng, không đọa vào nhân duyên, không lạc vào tự nhiên, chẳng hòa hợp, chẳng phi hòa hợp. Luôn vắng lặng, chu biến khắp mười phương. Tùy theo tín tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng.
Này Phật tử, danh hiệu Phật chính là Bồ đề tâm, vì là chủ tể các thiện pháp, và luôn luôn sanh ra tất cả Phật Pháp.
Danh hiệu Phật chính là Bồ đề nguyện, vì là cửa ngõ xu hướng Vô thượng giác, và luôn luôn dẫn dắt chúng sanh tới Nhứt thiết Chủng trí.
Danh hiệu Phật như mặt trời, vì có uy lực phá trừ si ám, ban phát ánh sáng thiện căn cho nhân gian.
Danh hiệu Phật như kình ngư, vì có thể bơi lội tự tại trong đại dương khổ não, mà chẳng bị sóng dữ phiền não vùi chôn, cuốn lấp.
Danh hiệu Phật như giống chắc thật, vì có thể lưu xuất tất cả phước đức vô lậu.
Danh hiệu Phật như trận mưa lớn, vì khiến hạt giống Bồ đề nẩy nở, sanh sôi.
Danh hiệu Phật như ruộng tốt, vì có thể trưởng dưỡng hết thảy bạch tịnh pháp.
Danh hiệu Phật như nước cam lồ quý báu, vì có thể tẩy rửa mọi thứ phiền não dơ bẩn, khiến vọng tâm trở thành đài gương làu làu sáng sạch.
Danh hiệu Phật như ngọn lửa mạnh mẽ, vì có thể đốt tan rừng rậm kiến chấp.
Danh hiệu Phật như trận cuồng phong vô ngại khắp thế gian, vì nó cuốn phăng tất cả bụi mù tà kiến, hí luận, thiên kiến.
Danh hiệu Phật như tuệ nhãn xuyên thấu mọi pháp và thấy rõ khắp tất cả chướng ngại, hiểm trở.
Danh hiệu Phật như chiếc xe khổng lồ, vì có thể chuyển vận hết thảy Bồ tát sơ phát tâm nhanh chóng tới Phật địa.
Danh hiệu Phật như căn nhà to rộng của Như Lai, vì khiến chúng sanh không còn sợ hãi, bất an.
Danh hiệu Phật như cung điện nguy nga tráng lệ, vì giúp chúng sanh tu tập và khai phát vô lượng Tam muội.
Danh hiệu Phật là chỗ nương tựa chắc chắn cho tất cả Bồ tát sơ phát tâm, vì luôn chứa nhóm và và lưu bố hết thảy Bồ tát hạnh.
Danh hiệu Phật như từ mẫu, vì ấp ủ, che chở và sanh ra tất cả Bồ tát, nuôi lớn căn lành cho hết thảy chúng sanh.
Danh hiệu Phật như kim cương bất hoại, lại có thể đập vỡ tất cả các pháp hữu lậu.
Danh hiệu Phật là vị thuốc A già đà, vì có thể chữa được tất cả bịnh tật cho chúng sanh.
Danh hiệu Phật như liên hoa, vì không bao giờ bị nhiễm ô bởi những pháp thế gian.
Danh hiệu Phật như tượng vương hùng dũng, có thể chà đạp tất cả điên đảo tưởng ngang trái, hung hiểm.
Danh hiệu Phật như hạt châu Ma ni, có thể dùng phát chẩn cho tất cả chúng sanh sanh nghèo khó phước đức và Trí tuệ.
Danh hiệu Phật như thủy thanh châu, vì có thể lóng sạch tất cả dây trói sanh tử.
Danh hiệu Phật như ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Thế Tôn Như Lai, Ưng cúng, Chánh đẳng giác, do đó tất cả thế gian nên cúng dường, hân ngưỡng, tán thán…
Danh hiệu Phật như Pháp thân bất tư nghị, vì luôn lưu xuất tất cả thân của chúng sanh.
Danh hiệu Phật như Báo thân tư nghị, vì luôn sanh ra vô lượng vi trần thân trong tâm tưởng mọi chúng sanh.
Danh hiệu Phật như Hóa thân Phật bất tư nghị, vì luôn hiện thân Phật ngay nơi thân và tâm của người xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật.
Danh hiệu Phật chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ, vì hiển thị Báo thân viên mãn lưỡng túc của giác quả.
Danh hiệu Phật chính là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ, vì dung nhiếp Hóa thân tùy nguyện vãng sanh của chư vị Thượng thiện nhân khắp mười phương thế giới.
Danh hiệu Phật chính là cõi Cực lạc vì tự thân trang nghiêm và tự tâm trang nghiêm.
Danh hiệu Phật chính là ba đời mười phương chư Phật, vì A Di Đà tức là Pháp giới Tạng thân, có lực dụng thu nhiếp và hiện Pháp thân của ba đời mười phương chư Phật.
Này Phật tử, danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật thành tựu vô lượng vô biên công đức như thế. Cho nên, phải nói rằng danh hiệu Phật chứa đựng vô lượng vô biên công đức của hết thảy Phật pháp, khai vô lượng vô biên diệu dụng, hiển thị vô lượng vô biên uy lực, giải ngộ vô lượng tri kiến Giải thoát, siêu việt mọi tư duy, ngôn từ.
Tại làm sao thế?
Bởi vì nhân nơi danh hiệu Phật mà xuất sanh và lưu bố tất cả Bồ đề tâm, tất cả Bồ đề nguyện, tất cả Bồ đề hạnh. Ba đời mười phương Như Lai thảy đều từ danh hiệu Phật mà phát sanh ra. Ba đời mười phương Như Lai thảy đều do danh hiệu Phật mà thành đạo, chuyển pháp luân, giáo hóa Nhị thừa, điều phục chúng sanh cang cường, tội khổ, tham đắm. Ba đời mười phương Như Lai thảy đều y cứ danh hiệu Phật mà kiến lập Hoa Tạng Thế Giới Hải, trang nghiêm vi trần số cõi Phật.
Cho nên, nếu chúng sanh nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, tức là xuất sanh vô biên công đức vô lậu bất khả tư nghị, đủ năng lực viên mãn Bồ tát đạo, phát huy diệu dụng của tam thân, tứ trí, thập lực, từ vô úy, tứ vô lượng tâm, lục Ba la mật, thập bát bất cộng v.v…
Này Phật tử, thí dụ như có người được món thuốc A già đà công hiệu bậc nhất thế gian, thì chữa được năm thứ bệnh bức não, sợ hãi. Như là: Lửa lớn không thể đốt cháy, độc dược chẳng làm thương tổn tánh mạng; gươm dao sắc bén chẳng thể chặt đứt nổi. Nước lũ bộc lưu không thể nhận chìm được. Khói cay không thể làm cho ngộp thở được.
Cũng như thế, Bồ tát sơ phát tâm nếu thường xuyên xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, tức là luôn luôn uống món thuốc nhứt thiết trí Bồ đề tâm, thì ngọn lửa tham lam không thể đốt cháy được. Độc dược sân hận chẳng thể làm thương tổn chân tâm. Gươm đao kiến chấp chẳng thể chặt đứt tuệ mạng. Dòng nước lũ hữu lậu không thể nhận chìm chiếc thuyền Bát nhã được. Và đám khói tà kiến không thể làm cho ngộp tắc hơi thở giác ngộ được.
Thí dụ như có người cầm thanh bảo kiếm vô năng thắng ở trong tay, thì tất cả oán địch đều tránh dang ra xa, chẳng dám chống cự. Cũng như thế, Bồ tát sơ phát tâm bền chí mà xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, chính là cầm lưỡi kiếm vô năng thắng đại Bồ đề tâm tức thì đẩy lùi oán địch vô minh, tà kiến và hàng phục vọng tưởng…
Thí dụ như có người cầm viên thuốc Ma ha ưng già thì tất cả rắn độc, rết độc, trùng độc, nghe mùi liền tránh xa. Cũng như thế, Bồ tát sơ phát tâm giữ trong mình một viên thuốc tối diệu tối thắng đại Bồ đề tâm, đó là danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, thì tất cả rắn độc thập triền, rết đọc thập sử, trùng độc phiền não nghe hơi thảy đều tiêu hoại.
Thí dụ như có loài dược thọ tên là San đa na, người nào dùng vỏ cây để thoa vào chỗ ghẻ lở, thì hết đau nhức và ghẻ lở liền lành lặn như xưa. Vỏ cây ấy vừa bị bóc ra, thì nối liền lại ngay, lấy mãi không hề hết được. Cũng như thế, Bồ tát sơ phát tâm liên tục xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, chẳng khác nào trồng cây dược thọ Nhứt thiết trí. Nếu có người nào gặp gỡ mà phát khởi lòng tin, thì ghẻ lở phiền não, nghiệp chướng đều bị trừ diệt, thân tâm không còn đau khổ. Nhưng cây dược thọ nhứt thiết trí không hề tổn hại mảy may. Danh hiệu Phật vẫn y nguyên bất động.
Thí dụ như có người ném vào khoảng đồng trống một nhúm rễ cây Hương phụ, chẳng bao lâu, nảy nở vô số giống cây ấy lan tràn che khuất cả cánh đồng rộng lớn. Cũng như thế, Bồ tát sơ phát tâm quyết tâm gieo trồng trên mảnh ruộng tâm một nhúm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, tựa như ươm bón thế rễ cây Không tánh. Chẳng bao lâu, sẽ sanh sôi nẩy nở vô số thảo mộc Phật Tri Kiến, tràn lan che lấp cả cánh đồng vô minh.
Thí dụ như có người uống hoàn thuốc kiện cường trí nhớ, nhờ vậy những gì nghe thấy đều ghi nhớ chẳng quên. Cũng như thế, Bồ tát sơ phát tâm trang bị thân tâm bằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, thì thọ trì tất cả Phật Pháp đều không quên sót.
Thí dụ như viên ngọc châu lưu ly, muôn ngàn năm lăn lóc nơi chỗ nhơ bẩn, uế tạp, mà chẳng nhiễm ô, vì bản tánh của lưu ly vốn luôn luôn trong sạch. Cũng như thế, Bồ tát Sơ phát tâm ngày đêm thủ hộ thân tâm bằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật mà chen lộn nơi cõi dục ác trược, vẫn chẳng bị ngu si, tà kiến làm cho loạn nhiễm. Bởi vì bản chất của Nam mô A Di Đà Phật vốn thanh tịnh như pháp giới tánh, vô cấu như hư Không tánh.
Thí dụ như cây Ba lợi Chất đa la dẫu chưa đơm hoa, khai nụ, nhưng mọi người đều biết rằng chính loại cây này sẽ sản xuất vô số bông hoa mỹ diệu, thù thắng. Cũng như thế, năng lực niệm Phật của vị Bồ tát sơ phát tâm dẫu chưa phá sanh nhứt thiết chủng trí, nhưng ai nấy đều biết chắc chắn rằng danh hiệu Phật chính là nơi xuất sanh vô số Bồ đề diệu hoa cho hết thảy chúng nhân, thiên.
Thí dụ như viên ngọc Ma ni quý hơn cả tam thiên đại thiên thế giới, dẫu bị nứt bể một góc cạnh, nhưng những thứ vật báu khác vẫn chẳng thể so sánh nổi. Cũng như thế Bồ tát sơ phát tâm chấp trì danh hiệu Phật, tuy nết hạnh và trí đức còn kém khuyết vẫn vượt lên trên Nhị thừa và hàng hữu học khác.
Thí dụ như cây Kim cương, những người đầy đủ sức mạnh vẫn không thể sử dụng nổi, chỉ trừ đại lực sĩ Na la diên. Cũng như thế, hành Nhị thừa và kẻ phàm ngu chẳng thể tín thọ danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Chỉ trừ hạng Bồ tát sơ phát tâm từng gieo trồng hạt giống Bát nhã từ vô lượng kiếp sâu xa, mới sẵn đủ thiện căn, phước đức và đại nhân duyên để chấp trì và hưởng dụng giác quả vô lậu ấy.
Thí dụ như trên bảo tòa Kim cương giữa đại thiên thế giới, có thể giữ vững chư Phật ngồi đạo tràng, hàng phục quần ma, thành đạo Vô thượng chính giác, mà tất cả những thứ bảo tòa khác đều không kham nổi. Cũng lại như thế, danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật có thể giúp Bồ tát sơ phát tâm trụ vững tất cả hạnh nguyện, các món Ba la mật, bốn món vô sở úy, thọ ký, cúng dường… mà tất cả pháp môn khác thì chẳng có công năng này, tất cả hạnh tu khác thì chẳng có lực dụng này.
Này Phật tử, danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật hiển thị vô lượng vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thù thắng như vậy. Ta dẫu biến hiện hằng hà sa thân tướng trong vi trần sát quốc độ trải qua muôn ức na do tha đại kiếp, để xưng tán thì cũng không cùng tận.
Ngài Đại Bồ tát Phổ Hiền ở trước đức Như Lai tuyên thuyết ý nghĩa và xưng tán công đức của danh hiệu Phật vừa xong, cả thảy đại chúng đều đắc Vô lậu Công đức Đà la ni. Trưởng giả Diệu Nguyệt cùng chư vị Bồ tát sơ phát tâm đều chứng được Niệm Phật Tam muội, tất cả chư Bồ tát mười phương đều đắc Hồng danh Công đức Tạng.
Khi ấy, trời mưa hoa Mạn đà la, hoa Ma ha Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha Mạn thù sa, để rải cúng dường đức Như Lai cùng hết thảy chúng hội đạo tràng.

5/ Phẩm Thứ Năm Quán Thế Âm Bồ tát Niệm Phật Viên Thông
Lúc bấy giờ, Quốc mẫu Vi Đề Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như Lai qua lời dạy của Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:
“Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng! Kính bạch Đại sĩ đại từ, đại bi! Con cũng thường nghe chư vị Trưởng lão trong tăng già luôn luôn nhắc nhở rằng chỉ có Tứ niệm xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết bàn. Nay được Thế Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hằng Ưu bà tắc, và Ưu bà di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo? Đâu là pháp phương tiện, quyền biến? Đâu là pháp tối hậu mà Như Lai thường ban cho các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng?”
Đức Phật mỉm cười lặng yên. Ngài Phổ Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam muội. Thân tâm bất động.
Khi ấy, Ngài Quán Thế Âm Đại Bồ tát liền từ bảo tòa đứng dậy, trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài hướng về bà Vi Đề Hy mà bảo rằng:
“Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, và tùy thuận Bản nguyện lực vô biên vô lượng của đức Phật A Di Đà, mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam muội.
Này Vi Đề Hy, hãy nhận rõ như thế này, đừng rơi vào nghi lầm nữa.
Đúng như ngươi vừa mới trình bày, Tứ niệm xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam muội lại là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô thượng giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của Nhị thừa. Tại sao vậy?
Trước đây, đức Thế Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ niệm xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A la hán.
Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ tát thì đức Thế Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam muội.
Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi lên, che mờ bản thể thường trụ, nhận vật bên ngoài làm tâm. Luôn luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, xấu đẹp, cao hạ… Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như Lai không khác.
Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật mà hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt. Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa tạng Thế giới hải.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay cái nghe trở vào Chơn tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát na đều hiển hiện Chơn như tánh. Chính nó thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn.
Này Vi Đề Hy, trong pháp hội Thủ Lăng Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ Lăng Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng Già, kinh Kim Cương, kinh Ma Ha Bát Nhã, kinh Diệu Pháp Liên Hoa… Nếu không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì sao? Bởi vì Niệm Phật Tam muội chính là món Viên thông đệ nhất.
Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗ nương về, lấy tà kiến làm bạn lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời xa Tri kiến Giải thoát Vô thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà chánh, thiện ác, chân ngụy… nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với tri kiến giác ngộ của chư Như Lai.
Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng, ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy giờ, tuy không lìa cung Đâu Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển pháp luân Vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp hết thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y tha khởi. Vì không có sự tham dự của ngã và ngã sở nên Biến kế sở chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát na đều biểu hiện Vô thượng Diệu viên Thức tâm Tam muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay ngoài đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng Duy thức cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười phương Như Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm sở… đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự diệt, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến khi Chân Duy Thức Tánh biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô sanh Pháp Nhẫn.
Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo làm khuất lấp tánh Viên giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chính tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.
Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa vô minh trở nên Giác ngộ; chuyển hóa sanh tử trở nên Niết bàn, chuyển hóa giả huyễn trở nên chân thật.
Vì sao vậy?
Khi xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định Như Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ giác Không tánh, vì danh hiệu Phật là Hư không tạng, là Viên giác tánh, là Vô cấu tạng, là Tịch tịnh tạng… Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên giác tánh. Đó gọi là tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.
Dùng pháp nào để Tri? Nếu không phải là diệu dụng của danh hiệu Phật?
Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn. Không cần thay đổi bản chất huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái biết “nhứt thiết pháp là Không” khiến đương thể của huyễn pháp tức là Không.
Tiếp tục xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết trở vào Viên giác tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát na đều hiển lộ Như Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào Viên giác tánh, bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười phương.
Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như Lai mà thâm nhập Như Lai Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên Viên giác tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng giải trí, Vô thượng trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục… nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.
Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giải siêu việt của danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lương, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Trí Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa xúc để cải biến Ta bà thành Tịnh độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Đại địa Bồ tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.

6/ Phẩm Thứ Sáu Năng Lực Bất Tư Nghị Của Danh Hiệu Phật
Ngài Quán Thế Âm Bồ tát bảo bà Vi Đề Hy rằng:
“Này Vi Đề Hy, đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn trọn đời giáo hóa điều phục chúng sinh, đã ban bố tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập. Nhưng trong đó, niệm Phật là thù thắng đệ nhất.
Vi Đề Hy, trong quá khứ vô lượng vô biên na do tha kiếp, các đức Phật Như Lai đã dùng hằng hà sa phương tiện, thí dụ, ngôn thuyết, để diễn bày vô số pháp môn tu tập, đưa hết thảy chúng sanh vào cảnh giới Giải thoát Tối Thượng Nhứt Thừa. Nhưng duy chỉ có niệm Phật là cứu cánh đệ nhất.
Vi Đề Hy, hiện tại nơi trăm nghìn muôn ức na do tha quốc độ khắp mười phương, các đức Phật Chánh đẳng giác cũng đang dùng hằng hà sa phương tiện, ngôn thuyết, thí dụ để diễn bày vô số pháp môn tu tập, đưa hết thảy chúng sanh dung hóa vào Không tánh, Niết bàn Diệu Tâm Như Lai Tạng, nhưng duy chỉ có niệm Phật là hữu hiệu, siêu việt đệ nhất.
Tại sao vậy?
Này Vi Đề Hy, hãy kiên nhẫn lắng nghe. Ta sẽ vì các hạng nữ nhân nơi thời Mạt pháp, cũng như ngươi hiện nay, mà tuyên dương tất cả năng lực bất tư nghị của danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật.
1. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào, hễ nhất tâm xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, dù chỉ một câu duy nhất, thì sẽ xuất sanh những món năng lực bất tư nghị. Như là:
Năng lực bất tư nghị phân biệt rốt ráo tự tánh của tất cả các pháp.
Năng lực bất tư nghị thấy rõ tánh chất huyễn hóa của tất cả pháp hữu – vi.
Năng lực bất tư nghị thấu triệt tất cả các pháp đều là Phật pháp ở nơi ý nghĩa liễu giải không vướng mắc.
Năng lực bất tư nghị tôn trọng và thừa sự hết thảy chư vị Thiện tri thức.
Năng lực bất tư nghị phân biệt tất cả các pháp mà tự tại vô ngại.
Năng lực bất tư nghị tùy thuận tất cả căn lành dẫn dắt tới Vô thượng giác.
Năng lực bất tư nghị luôn thâm tín điều nhu tất cả Phật Pháp.
Năng lực bất tư nghị đại từ bi khoan dung, không chê bai khinh rẻ những môn phi pháp.
Năng lực bất tư nghị không bao giờ thối thất Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện.
Năng lực bất tư nghị không hề quên sót danh hiệu Phật.
Năng lực bất tư nghị mãi mãi tùy thuận Bản nguyện của chư Phật, chư Bồ tát.
Năng lực bất tư nghị đưa hết thảy chúng sanh an trụ vào biển cả Đại nguyện vô lượng công đức của đức Phật A Di Đà.
Năng lực bất tư nghị cải biến Ta bà thành Tịnh độ vi diệu trang nghiêm, đồng cõi Cực lạc không khác.
2. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào chấp trì danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, trọn đời nhất tâm xưng niệm không chán mỏi, thì sẽ đắc thắng những pháp vô cấu nhiễm, nghĩa là không dính mắc.
Không dính mắc tất cả cảnh giới bên trong và bên ngoài.
Không dính mắc hơi thở và sự điều hòa hơi thở.
Không dính mắc tất cả pháp chỉ và tất cả pháp quán.
Không dính mắc các tâm sở tầm, tư.
Không dính mắc vào những trạng thái hỷ, lạc, khinh an…
Không dính mắc vào trạng thái xả, nhất tâm.
Không dính mắc vào Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ…
Không dính mắc vào tất cả pháp hữu lậu cũng như vô lậu.
Không dính mắc vào tất cả những pháp đã học.
Không dính mắc vào tất cả những căn lành.
Không dính mắc vào tất cả chỗ thọ sanh, giai tầng xuất thân, gia thế, dòng dõi.
Không dính mắc vào tất cả giới luật, thiền định, công hạnh tu tập.
Không dính mắc vào ý nguyện mong cầu xuất ly, Giải thoát.
Không dính mắc vào tất cả sự biện giải và tranh cãi.
Không dính mắc vào sự nỗ lực để tinh tấn.
Không dính mắc vào tư tưởng chán ghét thế gian.
Không dính mắc vào tất cả pháp tương ưng hành và những pháp bất tương ưng hành.
Không dính mắc vào ngay cả danh hiệu Phật.
3. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào siêng năng xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật chẳng lười mỏi, chẳng lui sụt, thì chắc chắn phát huy những Pháp Chân Thật, nghĩa là không dối gạt.
Không dối gạt tự thân.
Không dối gạt tha nhân.
Không dối gạt quốc pháp.
Không dối gạt vì bị áp chế bởi quyền lực kẻ mạnh.
Không dối gạt vì bị thao túng bởi nữ sắc.
Không dối gạt chư vị Thiện tri thức như Sư trưởng, bạn đồng học, đồng tu.
Không dối gạt tất cả những pháp đã học.
Không dối gạt tất cả những pháp chưa học.
Không dối gạt đoàn thể Tăng già.
Không dối gạt chỗ tri giải của tự tâm.
Không dối gạt chỗ nhận biết của người khác.
Không dối gạt tất cả chư Thánh nhân, Bồ tát, Như Lai.
4. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào thường xuyên xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật thiết tha, hân ngưỡng, dẫu gặp cảnh ngộ nào cũng chẳng thối chí, thì chiêu cảm những hạnh lành bất tư nghị. Như là:
Tự tại hạnh, vì an nhiên giữa tất cả chướng duyên nơi cõi Ta bà để thành tựu thệ nguyện.
Tam muội hạnh, vì nhất tâm, bất loạn.
An trụ hạnh, vì luôn luôn an trụ trong lực dụng của danh hiệu Phật.
Trí huệ hạnh, vì hiểu biết tất cả tướng trạng và thú hướng của Nhân Quả.
Thiện hữu hạnh, vì cung kính tôn trọng cúng dường tất cả Thiện tri thức để học hỏi Phật Pháp.
Cầu pháp hạnh, vì khát khao mong cầu pháp Bí mật tạng, Liễu nghĩa tạng của Nhứt thừa đạo.
Sám hối hạnh, vì thường đem cả ba nghiệp trong sạch mà đối trước chư Phật, chư Bồ tát phát thệ sám hối, nguyện từ nay về sau không tái phạm.
Trang nghiêm hạnh, vì luôn luôn đem hết thảy công đức hồi hướng trang nghiêm cõi Phật.
Trì giới hạnh, vì khéo giữ gìn giới luật không sai sót.
Như Lai hạnh, vì phát nguyện thành tựu mọi ước muốn của hết thảy chúng sanh.
5. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào kiên trì, dũng mãnh, xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, như mũi tên bắn thẳng tới đích nhắm, thì thành tựu những pháp Tinh tấn, nghĩa là không mỏi nhọc nhàn chán. Như là:
Thân cận tất cả thiện trí thức để cầu học, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Thọ trì tất cả Phật Pháp, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Nghe học Chánh pháp Như Lai, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Quán sát tư duy tất cả Phật Pháp, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Thấy rõ chúng sanh ngỗ nghịch cang cường, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Giáo hóa và điều phục tất cả chúng sanh vào pháp môn niệm Phật, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Đối trước những chướng duyên hiểm nạn, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Nhìn Phật đạo dài xa, trắc trở, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Cúng dường tất cả thiện tri thức như cúng dường chư Phật, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Thực hành Bồ tát hạnh, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
6. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào khẩn thiết, chí thành xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, không xao lãng, thì chứng đắc những pháp giác tri siêu việt, tối thắng. Như là:
Giác tri tất cả pháp đều cùng một thể tánh, như lưu ly sáng sạch và thanh tịnh như hư không.
Giác tri tất cả pháp luôn hiện bày vô lượng tướng.
Giác tri tất cả pháp đều xuất phát từ một niệm.
Giác tri tất cả cảnh trạng nhiễm, tịnh của thế gian đều do thiện nghiệp và bất thiện nghiệp của chúng sanh hiện ra.
Giác tri tất cả phiền não, tập khí của chúng sanh đều do vô minh sanh khởi.
Giác tri tất cả sở hành của chúng sanh đều như huyễn.
Giác tri tất cả vọng nghiệp sai biệt của chúng sanh đều lưu xuất từ chân như thường.
Giác tri bản nguyện lực của chư Phật là thậm thâm vi diệu khó nghĩ bàn.
Giác tri năng lực hộ trì của chư Phật không bao giờ bỏ sót một chúng sanh nào cả.
Giác tri tất cả Phật độ đều bình đẳng, vô ngại.
7. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào chuyên tâm trì niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, dẫu chỉ một ngày cho tới bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì cảm ứng những năng lực tổng trì không thể nghĩ bàn. Như là:
Tổng trì tất cả phước đức, thiện căn đã tích tập trong nhiều kiếp quá khứ, phát sanh Trí tuệ Giải thoát.
Tổng trì tất cả pháp quyết định chân thật, đoạn trừ hết những nghi ngờ, lầm lẫn.
Tổng trì tất cả nghĩa lý bí mật của Như Lai thừa.
Tổng trì tất cả nghĩa lý sâu mầu của khế kinh do đức Thích Ca giảng nói.
Tổng trì tất cả nghĩa lý sâu mầu của khế kinh do đức Thích Ca giảng nói.
Tổng trì tất cả bản nguyện chư Phật ba đời, mà phát tâm hoan hỷ.
Tổng trì tất cả vi tế hạnh của chư Bồ tát.
Tổng trì tất cả Tam muội, thu nhiếp vào trong Niệm Phật Tam muội, như sữa hòa tan trong nước.
Tổng trì tất cả xu hướng Đại thừa mà không chống trái.
Tổng trì Không tánh của tất cả pháp hữu vi hoặc vô vi, siêu việt hữu, vô, đoạn, thường …
8. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào hoan hỷ xưng tán hoặc cung kính chấp trì danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật dẫu chỉ một niệm, cho tới mười niệm, hoặc nhiều lần của mười niệm, thì sẽ âm thầm khế hợp với những thứ Tâm Bình đẳng. Như là:
Tâm bình đẳng, tích tập, lưu xuất, và thành tựu tất cả thiện căn, công đức của chư Phật, chư đại Bồ tát.
Tâm bình đẳng, phát khởi và kiên định tất cả thệ nguyện.
Tâm bình đẳng nơi các sắc thân, tướng mạo sai biệt của hết thảy chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi nghiệp báo, thú hướng của hết thảy các loại chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi tất cả tri kiến đúng sai, lành dữ tốt xấu … của hết thảy các loại chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi tất cả Phật Pháp và phi Chánh pháp.
Tâm bình đẳng nơi tất cả giới tịnh uế mà không sanh tâm phân biệt.
Tâm bình đẳng nơi tất cả hạnh tu không phân biệt.
Tâm bình đẳng nơi năng lực tiếp độ của tất cả Phật.
Tâm bình đẳng nơi Trí tuệ Giải thoát của chư Phật.
9. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào tùy thuận khế kinh mà xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật với tâm vô cầu thì sẽ phát xuất những công đức vô úy bất tư nghị. Như là:
An nhẫn giữa những chướng ngại, mà mở rộng tâm vô úy.
Hộ trì Chánh pháp không mỏi nhọc, mà trưởng dưỡng tâm vô úy.
Hàng phục tất cả ác tri thức, đưa hết thảy vào Chánh kiến, nêu cao tâm vô úy.
Vì sự trường tồn của Chánh pháp, mà phát khởi tâm vô úy.
Vì chí nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, chẳng tiếc tánh mạng mà thành tựu tâm vô úy.
Xô dẹp tất cả tà kiến của ngoại đạo, đánh đổ thiên kiến của Nhị thừa, mà phát tâm vô úy.
Làm cho tất cả chúng sanh hoan hỷ tu tập pháp Đại thừa, mà phát khởi tâm vô úy.
Kiên cố gìn giữ Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện mà phát khởi tâm vô úy.
Không khinh hủy những người phạm giới, không dua nịnh những bậc giới thể hoàn bị, mà phát khởi tâm vô úy.
Nghe nói pháp chưa học, mà không sợ sệt, phát khởi tâm vô úy.
10. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào phục sức thân tâm bằng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật thì sẽ đắc những năng lực Giải thoát không thể nghĩ bàn. Như là:
Giải thoát phiền não, không còn bị thập triền, thập sử, xâm hủy bức hại, nhiễu loạn.
Giải thoát tà kiến thế gian và tà kiến ngoại đạo.
Giải thoát những biện giải về sự Giải thoát.
Giải thoát những mục tiêu an trụ Niết bàn của Nhị thừa.
Giải thoát những trói buộc, áp chế của uẩn, xứ, giới.
Giải thoát những chấp trước về Phật pháp.
Giải thoát những chấp trước về phi Chánh pháp.
Giải thoát tất cả hí luận về Thật nghĩa của Nhứt thừa.
Giải thoát tất cả tri giải sai lầm của sáu căn.
Giải thoát tất cả hí luận về cảnh giới siêu việt của chư Phật, chư Bồ tát.
Giải thoát hí luận, biện tài về Không tánh, về những pháp vô sở đắc.
11. Này Vi Đề Hy! Bất cứ chúng sinh nào thoáng nghe danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, liền tín thọ chấp trì, niệm niệm nối nhau không gián đoạn, thì sẽ hiển lộ những thứ tâm bất động. Như là:
Sẵn sàng xả bỏ tất cả sở hữu, mà không hề nuối tiếc, do đó tâm được bất động.
Đối với tất cả chúng sanh, không có lòng não hại, do đó tâm được bất động.
Trong việc nhiếp hóa chúng sanh, chẳng hề phân biệt kẻ oán người thân. Do đó tâm được bất động.
Dẫu ham làm các thiện sự nhưng chỉ gặp thất bại, hủy nhục nhưng không hề lui sụt Bồ đề tâm nguyện. Do đó tâm được bất động.
Tư duy, quán sát diệu nghĩa của tánh không mà chẳng hề sợ sệt, ngăn ngại. Do đó tâm được bất động.
Nhìn ngũ trược ác thế, thấy chúng sanh say sưa nô đùa với tám món điên đảo, mà không chán ghét, bỏ lìa, khinh chê. Do đó tâm được bất động.
Nghe những pháp khó tin, khó hiểu của Đại thừa mà ghi nhớ không quên. Do đó, được tâm bất động.
Dẫu sống trong thế pháp nhiễm ô, mà vẫn tu tập phạm hạnh, hộ trì tịnh giới. Do đó tâm được bất động.
Nơi chỗ sở đắc, và nơi chỗ vô sở đắc, luôn luôn giữ lòng an nhiên, chẳng náo loạn. Do đó được tâm bất động.
Đối với kẻ trí nhỏ, khinh chê pháp Đại thừa, mà mình cũng không sanh lòng giận hờn, ghét bỏ. Do đó tâm được bất động.
12. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, dẫu với tâm thái nào đi nữa, thuận ý hoặc nghịch ý, ham thích hoặc chống trái, đều thâu hoạch vô số Trí lực bất tư nghị. Như là:
Trí lực Quán Chiếu, thấy rõ tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh khởi.
Trí lực Như Thật, nhận biết tất cả các pháp đều chẳng thật, đều như huyễn hóa, mộng mị.
Trí lực Như Như, thấy rõ tất cả các pháp không đối nghịch, mâu thuẫn.
Trí lực Vô Úy, thấy rõ tất cả các pháp biến dịch không ngừng, sanh, trụ, dị, diệt từng sát na, mà chẳng tham luyến hay sợ hãi.
Trí lực Kim Cương, vì thực hành hạnh nguyện Bồ tát, lợi lạc quần mê, mà chẳng dính mắc vào ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng.
Trí lực Tịch Tịnh, vì trực nhận sâu xa cái bản thể vắng lặng, thường trụ thanh tịnh các pháp.
Trí lực Viên Mãn, vì tuy khẩn thiết cầu sanh Cực lạc mà vẫn nguyện trở lại Ta bà cứu độ chúng sanh.
Trí lực Thiện Xảo, vì khéo léo phân biệt ý nghĩa chân thật của các pháp và khéo léo sử dụng phương tiện để dìu dắt chúng sanh.
Trí lực Thậm Thâm, vì tương ứng với đạo Nhứt thiết trí.
Trí lực Vô Ngại, vì hiểu biết tâm ý và sở hành của chúng sanh, nhẫn nại làm cho họ phát Bồ đề tâm, hoan hỷ siêng tu kiên cố, bất thối.
Trí lực Tối Thắng, vì tự nhiên tin nhận vô biên diệu dụng của hồng danh Nam mô A Di Đà Phật, mà chẳng phân vân thủ xả.
13. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu, hoan hỷ thọ trì danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, cho tới nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp Quyết định bất khả tư nghị. Như là:
Quyết định đời đời thọ sanh trong dòng giống Như Lai.
Quyết định vĩnh viễn an trú trong cảnh giới vô lượng quang minh nghiêm sức của chư Phật.
Quyết định thấu triệt công hạnh, tâm nguyện của chư Bồ tát.
Quyết định an trụ trong vô số các môn Ba la mật.
Quyết định tham dự trong những chúng hội đạo tràng của chư Như Lai.
Quyết định đủ năng lực hiện bày thể tánh và chủng tướng của chư Như Lai.
Quyết định an trụ trong Trí tuệ siêu việt, Giải thoát của Như Lai, thâm nhập Bồ đề giác tánh của chư Phật.
Quyết định an trụ trong bản nguyện vĩ đại của đức Phật A Di Đà, chắc chắn được Ngài tiếp dẫn.
Quyết định hòa hợp thân và tâm vào trong kim thân của chư Phật.
Quyết định hóa sanh tự nơi hoa sen báu, cùng một chỗ ở với chư Phật, chư Thánh chúng.
14. Này Vi Đề Hy, bất cứ chúng sanh nào quyết liệt đối với Bồ tát đạo, luôn tinh tấn xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày. Liên tục như vậy, trọn đời không mỏi nhọc, thì chắc chắn thành tựu mười giới pháp thanh tịnh, xứng đáng là bậc tôn quý trong hàng Nhân Thiên. Như là:
Thanh tịnh giới nơi Thân, vì xa lìa nghiệp sát sanh, dâm dục, trộm cắp.
Thanh tịnh giới nơi Miệng, vì xa lìa bốn nghiệp dữ là nói dối, nói thiêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác.
Thanh tịnh giới nơi Ý, vì xa lìa ba nghiệp xấu nơi ý, đó là tham lam, sân hận, tà kiến.
Bồ đề tâm giới, nơi sự nghiệp tuệ giác, vì chẳng ưa thích pháp Tiểu thừa, mà đặt trọn chí hướng nơi Phật Tri Kiến.
Ba la mật giới nơi sự nghiệp hóa độ tất cả chúng sanh, vì thực hành vô lượng Ba la mật, khéo dẫn dắt chúng sanh vào Như Lai thừa.
Thâm mật giới nơi phương tiện thiện xảo, vì giữ gìn giới thể trong sạch như lưu ly, và khéo cứu vớt tất cả chúng sanh trót hủy phạm giới luật.
Nhiếp thọ Giới nơi đại nguyện viên mãn, vì luôn ngăn ngừa chúng sanh làm những việc ác mà chỉ giúp họ làm các việc lành.
Nhứt thiết nghĩa không giới, vì thấu triệt trọn vẹn nghĩa lý mật nhiệm của Không tánh, rời bỏ tất cả kiến chấp hữu lậu cũng như buông bỏ ngay cả Trí Tạng vô lậu.
Thủ hộ giới, vì nơi tất cả chúng sanh, luôn phát khởi lòng đại bi đưa hết thảy vào Như thật đạo, không để chúng sanh rơi vào tà kiến, và đọa vào ba đường dữ.
Tùy nhạo giới, vì luôn khiêm cung, chất trực và nhu hòa. Không bao giờ rêu rao lỗi lầm của chư Tỳ kheo, chư Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, cũng như những người sơ học.
15. Này Vi Đề Hy, giả sử đem muôn ức na do tha hằng hà sa quốc độ mà nghiền thành vi trần, cứ mỗi mỗi vi trần là một đại kiếp. Dùng khoảng thời gian vô cùng dài lâu ấy, để diễn nói tất cả năng lực bất tư nghị của danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, thì cũng không thể nào diễn nói cho đầy đủ hết được.
Nay ta tạm tuyên thuyết ít phần trong vô lượng vô biên bất khả thuyết, bất khả thuyết, năng lực bất tư nghị của danh hiệu thù thắng, vi diệu đệ nhất ấy. Ngươi hãy tín thọ, ghi nhớ, suy gẫm, và nhất tâm phụng trì.
Ngài Quán Thế Âm vừa dứt lời, bấy giờ mười phương chư Phật đồng hiện ra khen rằng:
Lành thay! lành thay! Phật tử Quán Thế Âm thực hiện việc làm hi hữu. Khéo vì chúng sanh thời Mạt pháp mà xưng tán, tuyên dương năng lực bất tư nghị của danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Ai nhất tâm xưng niệm danh hiệu ấy, sẽ được chư Phật hộ trì và nhiếp thọ, quyết định thành Phật.

7/ Phẩm Thứ Bảy Khuyến Phát Niệm Phật Và Đọc Tụng Chơn Ngôn
Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát bạch Phật rằng:
Thưa Thế Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời Mạt pháp, khi ấy kiếp giảm, thọ mạng ngắn, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà la ni này, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực lạc. Gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà la ni.
Liền nói thần chú:
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lị đá tất đam bà tỳ, a di lị đá tỳ ca lan đế, a di lị đá, tỳ ca lan đá, già di nhị, già già na, chỉ đá ca lệ sa bà ha.
Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh khiết. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng hai mươi mốt biến. Như vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác, và hủy báng Chánh pháp. Thường được đức Phật A Di Đà hiện trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi thở cuối cùng, được tùy nguyện mà vãng sanh Cực lạc. Hoặc tụng đến ba chục muôn biến, liền thấy Phật ngay trước mặt mình.
Bấy giờ, Ngài Quán Thế Âm Đại Bồ tát bước ra trước Phật, bạch rằng:
Nay con nương uy thần của đức A Di Đà, mà ban cho chúng sanh quyết chí niệm Phật thời Mạt pháp, một chân ngôn gọi là: Vô Lượng Thọ Như Lai Chân Ngôn. Đây là tạng pháp bí mật của Phật A Di Đà, ẩn chứa vô biên thần lực tự tại bất tư nghị. Nếu hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc Ưu bà tắc, Ưu bà di lỡ phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến liền trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Tụng hai mươi mốt biến, tiêu diệt các tội: Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác và tất cả chướng ngại trên bước tu hành đều trừ sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi, được sự nhiếp thọ của vô lượng Như Lai. Tụng một muôn biến, tâm Bồ đề hiển hiện nơi thân không quên mất. Thấy đức Phật phóng quang tụ trên đỉnh đầu. Người niệm Phật lần lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẻ, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả niệm Phật liền thấy Phật A Di Đà cùng vô lượng muôn ức Bồ tát vây quanh, an ủi, tiếp dẫn. Người niệm Phật tức khắc được sanh về Thượng phẩm ở Cực lạc.
Sau đây, con xin tuyên đọc Vô Lượng Thọ Như Lai chân ngôn:
Na mô rát na tờ gia gia gia, na mắc a ry gia, a mi ta pha gia, ta tha ga ta gia, a rờ ha tê, sam giác sam bút đa gia, ta đi gia tha: om a mờ rật tê, a mờ rật tô đờ pha vê, a mờ rật ta sam pha vê, a mờ rật ta ga ri phê, a mờ rật ta sít đê, a mờ rật ta tê rê, a mờ rật ta vi hờ rim tê, a mờ rật ta vi hờ rim ta, ga mi nê, a mờ rật ta ga ga na, ki ti ka rê, a mờ rật ta đun đa phi sờ va rê, sạc va rờ tha sa đa nê, sạc va kác ma, ka lê sa, ka sa, giam ka lê, sờ va ha.
Ngài Quán Thế Âm vừa đọc xong bài chân ngôn ấy, bỗng vô lượng vô biên vô số thế giới đều chấn động sáu cách, quang minh chiếu rực cả mười phương. Đức Thích Ca cùng chư Phật khắp thế giới hư không giới, đồng thanh khen ngợi: “Lành thay! Lành thay!”
Lúc bấy giờ, Diệu Nguyệt Trưởng giả vui mừng vô hạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo phơi bày vai hữu, đi nhiễu quanh đức Phật Thích Ca ba vòng, rồi chấp tay, quỳ gối, hướng lên đức Phật mà đọc kệ khen ngợi:
Đức Phật Thế Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại Từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ tát sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế Tôn, đấng Vô thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực lạc,
An nhiên chứng đắc Vô sanh nhẫn.
Nhân đây Bồ tát sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam muội.
Đức Phật Như Lai đấng Bất động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ tát sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư Không Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên giác tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
Lúc bấy giờ, Trưởng giả Diệu Nguyệt ở trước đức Thế Tôn, đọc bài kệ khen ngợi Phật rồi, thành khẩn thưa hỏi như thế này:
Kính bạch đức Thế Tôn Toàn giác, Toàn trí, kinh này tên gọi là gì? Chúng con phải thọ trì như thế nào?
Phật bảo ông Diệu Nguyệt Trưởng giả rằng:
Kinh này gọi là NIỆM PHẬT BA LA MẬT, còn gọi là XƯNG TÁN HỒNG DANH CÔNG ĐỨC KINH, cũng có tên là NIỆM PHẬT BÁT NHÃ TAM MUỘI KINH. Các ngươi y theo đó mà thọ trì.
Này Diệu Nguyệt, trong thời Mạt pháp, các kinh điển Đại thừa đều diệt tận. Nơi cõi Nam Diêm phù đề này chỉ có kinh này tồn tại. Đức Phật A Di Đà cùng Ta, đều rộng mở lòng đại Từ bi mà lưu trụ kinh này thêm mười năm nữa. Hai vị Đại Bồ tát Quán Thế Âm và Phổ Hiền đồng phát nguyện thủ hộ kinh này, và che chở những người niệm Phật, khiến những kẻ chống trái và các ác ma không thể làm nhiễu loạn bức hại được.
Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nhìn chúng hội đạo tràng, mà bảo rằng:
Này đại chúng, nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, suy gẫm, biên chép Kinh Niệm Phật Ba La Mật này, thì các ngươi phải biết người ấy trong vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp lâu xa đã từng gặp gỡ, thân cận, cúng dường tôn trọng chư Phật. Người ấy vốn thật sự từ Bát nhã trí sanh ra, đời đời thực hành giáo pháp Như Lai vô tận tạng.
Này đại chúng, nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người nào thoáng nghe qua Kinh Niệm Phật Ba La Mật này, mà phát khởi tín tâm chắc thật, chẳng nghi sợ thì các ngươi phải biết người ấy ở trong vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp lâu xa từng dũng mãnh phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát hạnh, không mỏi nhọc, và nơi chư Phật từng gieo trồng Giải thoát đức, Bát nhã đức, Pháp thân đức chẳng thể tính đếm, thí dụ được.
Này đại chúng! Nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người nào tin nhận, ghi nhớ rõ ràng nghĩa thú của Kinh Niệm Phật Ba La Mật này, rồi nương theo đó xưng niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Dẫu một niệm, hai niệm, cho tới mười niệm hoặc nhiều lần của mười niệm thì các ngươi phải biết người ấy chắc chắn được Phật thọ ký, hiển phát năng lực của tánh không, tỏ ngộ tri kiến Như Lai, và bước thẳng vào cảnh giới Thánh trí tự chứng.
Này đại chúng, nếu các ngươi thấy người nào thọ trì kinh này, và thường xuyên niệm Phật, thì phải khởi lòng tôn trọng y như kính ngưỡng chư Phật vậy. Chớ nên móng tâm ngăn trở người thọ trì kinh này, chẳng được phơi bày lỗi lầm, sai trái của người niệm Phật.
Này đại chúng, nên biết rằng, vô lượng vô biên muôn ức na do tha vi trần số Hóa thân và Ta khắp tất cả quốc độ trong mười phương, cũng đều giảng nói KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT, cũng đều khuyến phát chúng sanh siêng năng niệm Phật. Tất cả chư Phật phân thân của Ta luôn luôn phóng đại quang minh nhiếp thọ và thủ hộ những chúng sanh niệm Phật, không bỏ rời.
Lúc Phật dạy kinh này xong rồi, chư vị Đại Bồ tát ở mười phương, chư vị Trưởng lão Thanh văn, như các Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp … cùng các Trời, Rồng, Dạ xoa, nhân, phi nhân … tất cả đại chúng đều rất hoan hỷ, thọ trì lời Phật dạy, ân cần đảnh lễ mà lui ra.
Phật thuyết Niệm Phật Ba La Mật Kinh.

No comments:

Post a Comment